+++++
Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài
Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn
Phạm Hồng Sơn (pro&contra) thực hiện
pro&contra: Hai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông
Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã
cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn
những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền
lực, quyền lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành
ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh
Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều
gì đã khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đình có
truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách
mạng khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước”đã thành công hoàn toàn?
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được “nhuộm
đỏ” từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những
việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận
Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ
tuổi. Vì ba má tôi là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ
trước năm 1945. Ba tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính
quyền tại Đà Lạt vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của
Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là
những người đi tập kết ra Bắc sau năm 1954.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi
đã được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần của cách mạng, tôi
cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của chúng tôi ở
trong “vùng tự do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự truy
lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó
khi ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ
ủng hộ bí mật cho ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư
sản.
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ
có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng gây cho chúng
tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là qua quan
sát, tiếp xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì
hai anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có
tinh thần kỷ luật, chịu đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất
cao đẹp là quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt
trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm
cho những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc.
Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải
chống lại họ và chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng Sơn: Thời gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc gì để ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều cùng có
hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy núi”, tức là
phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt động. Tôi
“nhảy núi” vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật Tấn,
“nhảy núi” trước đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm công
tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học sinh, sinh viên tại Đà
Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán phát truyền
đơn hay khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi
người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào thanh niên học
sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào những “vùng lõm“
(vùng dân cư mà ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn
ban đêm thuộc về lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay
vận động ủng hộ về vật chất, tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng Sơn: Những công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên trì, khôn khéo
trong công tác vận động và không phải lần vận động nào cũng thành công.
Cả hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm trán với lực
lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương
nhẹ trong một, hai lần.
Phạm Hồng Sơn: Sau 30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường Đảng?
Huỳnh Nhật Hải: Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục
công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công tác chính quyền. Năm
1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà
Lạt, rồi sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm
1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy
viên.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi thì được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau khi
“nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào số cán bộ đầu tiên
gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội
trong 3 năm rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng
tỉnh Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn
Trung Ương trong 03 năm nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó
Giám đốc trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh
ủy, là Tỉnh ủy viên dự khuyết.
Phạm Hồng Sơn: Một cách ngắn gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó
tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước
đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói.”
Huỳnh Nhật Hải: Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một
vài tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động cơ để phấn đấu cho
mục tiêu và lý tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì
cũng giống như ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.
Phạm Hồng Sơn: Quá trình đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm,
thông qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ
mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN
là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ
vấn đề lý luận.
Phạm Hồng Sơn: Những “thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội,
điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người
dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật
mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị,
ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa
đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên
pháp luật hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi
thấy những chính sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những
chỉ thị là Đà Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải
sản xuất bao nhiều mì[i]
mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh
tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào
chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó
với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi
càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt
Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho
một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những
người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan
điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như
thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan
điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình,
bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu
cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để
chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và
không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Phạm Hồng Sơn: Các ông đã quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai
Thái Lĩnh thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi” nhưng sau
30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận gì với nhau cả.
Anh em chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đã nói với nhau là “chúng ta
đi làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính
độc tài như thế này.”
Phạm Hồng Sơn: Gia đình, những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước quyết định đó?
Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi đều đã qua đời nhưng chúng tôi
tin rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giã ĐCSVN của chúng
tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về nhà tự làm
ăn của chúng tôi.
Phạm Hồng Sơn: Thế còn hai anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của hai ông?
Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của chúng tôi thì gần như không có ý
kiến gì, còn người anh trai thứ hai thì không đồng ý. Còn những đảng
viên đồng sự khác và các cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần
như tất cả mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc đó
đã nói với tôi là nếu về thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác
định trong lòng là trước đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được
thì lẽ nào bây giờ lại không.
Phạm Hồng Sơn: Khi “trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng,
hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh có vấn vương trong “trằn
trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.
Phạm Hồng Sơn: Các ông thấy thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận chúng
tôi nhận thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc
sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng
30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở
miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí
Minh vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đã từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ
Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn ra khi ông Hồ Chí Minh còn
sống thì tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì quyền lực là chính,
còn mục tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho xã
hội Việt Nam đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ
là những ngọn cờ để ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức
cho mục đích giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời
ông Hồ Chí Minh đã biểu hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp
đó, độc lập cho dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm Hồng Sơn: Vâng, về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông nói rõ thêm?
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông Hồ Chí Minh đã đưa đất nước thoát
khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại để đất nước trở lại sự
phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có
sự đồng ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không thể có
tình hữu nghị Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958
của ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí Minh đã
vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung
Quốc cộng sản đối với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm Hồng Sơn: Liệu có công bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí Minh?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là tình trạng lâm nguy của đất nước hiện nay
không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một lãnh tụ, một
nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều có ảnh
hưởng rất căn bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu
hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn
khẳng định ông Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn
luyện “Đảng ta”, tức là ông Hồ Chí Minh đã là kiến trúc sư cho mọi chính
sách, đường lối của ĐCSVN cũng như thể chế, cung cách quản lý xã hội
của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã
mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của ông ấy vẫn được tiếp
tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô
hào học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào
lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện
nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu
của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế
thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người
Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý ra, với cương vị là
người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được
giết hoặc hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm
và nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ,
thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét
xử thì ông Hồ Chí Minh không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ
Chí Minh thực sự là người vì nước vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều
đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm là phải để nhân dân và giới trí thức
có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp chớ.
Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa,
các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng
hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào
lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt
cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do
đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng Sơn: Ngày 30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.
Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày
04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp lại
má tôi – má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh tôi lên bàn
thờ.
Phạm Hồng Sơn: Dịp 30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn
giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ
như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04
chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và
lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người
là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người đó chính là
“kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt
huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình
đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự
do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công
sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền
lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do,
dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước
1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã
đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng Sơn: Xin trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
______________________
Chú thích ảnh: Ông Huỳnh Nhật Hải (phải) và ông Huỳnh Nhật Tấn (trái)
Phạm Hồng Sơn
© 2012 pro&contra
[i] “Mi” tức là “sắn” theo tiếng miền Bắc
Thà chấp nhận thiệt thòi quyền lợi cá nhân chứ nhất định không chịu cúi đầu trước cái ác!
Bài phỏng vấn cùng hai nhân vật được phỏng vấn, thật tuyệt vời và khả kính - Điểm 10.
Nguyên Thạch
Nhưng quá khứ cũng đã qua,hai Ông còn có Tư cách,Nhân cách và Đạo đức hơn một số người trong hàng ngũ "Ngụy quân Ngụy quyền" trong 37 năm qua mà Quí Bà con Việt chắc đã thấy!!Những loại như thế (Kể cả CS và VNCH) mà còn thì "hy vọng" cho Đồng bào ta còn khổ ải dài dài- Loại ăn đàng sóng nói đàng gió,bịp bợm,xôi thịt....thì nó bán nước hại Dân là không tránh khỏi!!Miễn sao nó vinh thân phì da ,tiền bạc như lá mùa thu...là làm bất kỳ chuyện tàn ác nào mà con người có thể làm.Miệng thì rao giảng đạo đức.
Chúc Hai Ông sức khỏe và cám ơn về về sự thật mà hai Ông đã nói.
Cháu - một người luôn nhìn một tấm thảm đẹp thì phải ngó coi mặt sau của nó thế nào, đã không vào đảng ngay cả khi có cơ hội thăng tiến trong một DN nhà nước. Năm 36 tuổi, cháu đã rời khỏi công ty này và ra ngoài kinh doanh riêng.
Đến giờ phút này thì cháu thấy tự hào rằng mình đã lựa chọn không sai khi tâm hồn mình thật thanh thản do không phải nói những điều mình ko muốn nói hoặc ngậm miệng khi thấy những điều không nên không phải. Rất nhiều người hiện nay vẫn đang còn ngụp lặn trong cái sự dối trá, lừa lọc và cơ hội ấy để mong tiến thân, kiếm chác, và chỉ vậy mà thôi.
Việc rời bỏ đảng và những cơ hội chức quyền, bổng lộc của 2 bác vào thời kỳ ấy là việc phi thường. Ngày nay, xu hướng ấy đang diễn ra mạnh mẽ với những bạn trẻ, không chịu sống đời tầm gửi. Chỉ còn số cố sống cố chết bám vào đảng là bởi họ không có khả năng tự đứng trên đôi chân của mình và/hoặc cơ hội kiếm tiền mà đảng mang lại cho họ quá lớn mà thôi.
Kính chúc 2 bác sức khỏe và có cơ hội chứng kiến đất nước đổi thay.
Cái Đảng CSVN có xứng đáng lảnh đạo không?
Bỏ Đảng CSVN là thức thời