Giật mình với thu nhập của người Việt Nam so với khu vực
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore.
Thu nhập trung bình của người Việt Nam vẫn còn khoảng cách rất xa so với các nước trong ASEAN và Trung Quốc, dù đã được cải thiện nhiều do đổi mới và mở cửa cách đây hơn một phần tư thế kỷ.
Một góc vùng quê Bạc Liêu
Trong khi đó, cơ hội để Việt Nam đuổi kịp Trung Quốc và các nền kinh tế ASEAN sẽ vẫn là viễn cảnh xa vời, nếu thiếu đi những động lực cải cách hơn nữa.
Đây là cảnh báo của một đề tài khoa học cấp nhà nước mang tên “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020: từ nhận thức với hành động” do ĐH Kinh tế Quốc dân thực hiện.
Báo cáo này, thực hiện theo yêu cầu của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, trích dẫn số liệu về thu nhập của Việt Nam và các quốc gia khu vực do Quỹ Tiền tệ Quốc tế thực hiện năm 2010.
Theo đó, tính theo tỷ giá hối đoái, GDP đầu người của Việt Nam đã tăng từ mức 114 USD năm 1991 lên 1.061 USD năm 2010. Trong khi đó, GDP đầu người của Trung Quốc tăng từ 353 USD lên 3.915 USD trong khoảng thời gian trên.
Như vậy, thu nhập đầu người của Việt Nam tương đương 32% của Trung Quốc năm 1991 đã giảm xuống còn 27% năm 2010.
Mặt khác, tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 706 USD năm 1991 và lên tới 2.948 USD năm 2010. Trong khoảng thời gian đó, con số này của Trung Quốc tăng từ 888 USD lên 6.786 USD.
Như vậy, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam bằng 80% của Trung Quốc năm 1991 đã giảm xuống còn 43% năm 2010.
Bên cạnh đó, so với các quốc gia ASEAN khác, dù thu nhập của người Việt Nam đã dần được thu hẹp trong 20 năm qua, khoảng cách vẫn còn rất lớn ở vào thời điểm hiện tại.
Tiến sĩ Phạm Hồng Chương và các đồng sự ở ĐH Kinh tế Quốc dân cho biết, GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo PPP chưa bằng 1/2 của Philippines, hay Indonesia, khoảng 1/5 của Thái Lan, 1/10 của Malaysia năm 1991.
Con số này đã vượt qua mức 3/4, 1/3 và 1/5 của các nước trên sau gần 20 năm.
Tóm lại, quy mô GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2010 đạt 1.061 USD tính theo tỷ giá hối đoái, và 2.948 USD theo PPP.
Tiến sĩ Phạm Hồng Chương nhận xét: “Đây là những chỉ số còn thấp xa so với mức bình quân chung của khu vực, của châu Á và thế giới”. Ông nhận xét, sau hơn một phần tư thế kỷ đổi mới và mở của, Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình, theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới.
Tuy nhiên, theo ông Chương, xét về nhiều mặt, động thái tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa thể hiện rõ quyết tâm và khả năng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu phát triển. Trong khi đó, trong một vài năm gần đây, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều rủi ro tiềm ẩn về tính bền vững của quá trình tăng trưởng.
Báo cáo của ĐH Kinh tế Quốc dân chỉ ra thêm về thực trạng thất nghiệp ở mức 4,6% ở thành thị và 20% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng; báo cáo nhận xét: “Như vậy, tỷ lệ trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn ở Việt Nam”.
Thu nhập của người Việt Nam bị bỏ lại quá xa bởi các nước trong khu vực không phải là vấn đề mới.
Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore.
Báo cáo này căn cứ vào tốc độ tăng trưởng thu nhập trên đầu người tính theo giá cố định trong giai đoạn 2001 – 2007 của các quốc gia và kết luận “thực tế là Việt Nam sẽ phải rất lâu mới theo kịp được”.
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Nld
+++++
Bí vốn kéo dài: DN từ nín thở đến tắt thở
Để sống qua thời kỳ giông bão, các DN đã phải cắt giảm chi tiêu, tái cơ cấu, sa thải bớt nhân công và nín thở chờ cơn bão đi qua. Cuộc nín thở kéo dài khiến một bộ phận không nhỏ phải tắt thở.
Bạn tôi có một công ty truyền thông, không lớn lắm nhưng việc làm khá đều, doanh thu mỗi năm dăm chục tỷ. Trừ mọi khoản chi tiêu, trong túi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền bạc. Hơn thế, hắn rất bận, không biết vì bận thật hay vì túi tiền rủng rỉnh nên phải tỏ ra bận để nâng tầm quan trọng?
Khi nền kinh tế khó khăn, các DN đều phải tự thích ứng bằng cách cắt dần mọi khoản chi tiêu.
Cũng chính vì thế, mới đây, bạn tôi bảo thị trường truyền thông thu hẹp dần, hẹp dần. Các hợp đồng vì thế mà thưa dần, lợi nhuận giảm, không nuôi nổi quân, đành chuyển văn phòng về nhà theo kiểu "home office". Công ty kiếm được việc thì thuê ngoài theo kiểu "out sourcing", không kiếm được thì ngồi chơi, xơi nước. Ngồi chơi chán đành phải kiếm trò tiêu sầu, giết thời gian, chờ thị trường ấm lên sẽ hoạt động trở lại.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, con số 50.000 phá sản được công bố mới đây chỉ là phần nổi của tảng băng. Trong một nền kinh tế mà thị trường chứng khoán ảm đạm, bất động sản đóng băng, lạm phát tăng cao, trong khi đó lãi suất ngân hàng cao ngất ngưởng mà không dễ gì vay được thì chuyện DN "tắt thở" là điều dễ hiểu. Chính sách lãi suất đã bóp nghẹt khu vực sản xuất, và khuyến kích cách làm ăn chụp giật. Gặp thương vụ nào hời, "đánh quả" xong, rút quân, còn làm ăn chân phương đúng luật thì cầm chắc lỗ.
Để sống qua thời kỳ giông bão đó, các DN đã phải cắt giảm chi tiêu, tái cơ cấu, sa thải bớt nhân công và nín thở chờ cơn bão đi qua. Cuộc nín thở kéo dài khiến một bộ phận không nhỏ phải tắt thở. Trở lại trường hợp của anh bạn tôi như đã nói ở trên, đã hơn năm nay không phát sinh doanh thu. Cuối năm nộp báo cáo thuế cho đúng thủ tục. Nếu khó khăn kéo dài chắc phải làm đơn xin tạm dừng hoạt động. Doanh nghiệp chưa chết về mặt pháp lý nhưng chết về mặt sinh học.
Tuy nhiên, không phải DN nào khó khăn cùng làm đơn xin dừng hoạt động. Nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh nợ nần kéo dài, trước sức ép của chủ nợ, đã chọn kế... "chuồn". Vậy là, các cơ quan quản lý nhà nước như Thuế, Hải quan... chỉ biết rằng có một số lượng DN như thế như thế mất tích, còn cụ thể của việc lặn không sủi tăm đó thế nào? Bao giờ mới nổi lại là việc mà không phải ai cũng biết được.
Theo một nguồn tin không được công khai, đến thời điểm này, số DN phá sản không còn là dăm chục ngàn như chín tháng đầu năm ngoái mà đã vượt qua số 200.000. Con số này cũng phù hợp với nhận định của một số chuyên gia nước ngoài: khoảng hơn 30% các DN Việt Nam đã lâm vào phá sản. Nền kinh tế suy trầm, sức mua giảm, các doanh nghiệp thu hẹp quy mô, hàng ngàn văn phòng, chi nhánh của các DN ở các đô thị lớn bị đóng cửa, công nhân mất việc làm, thị trường bất động sản đóng băng, kéo theo đó là những ngành công nghiệp liên quan như xi măng, sắt thép, vật liệu nội thất đều giảm.
Điều nghịch lý là trong bối cảnh như vậy của nền kinh tế thì lĩnh vực tín dụng vẫn là mảnh đất màu mỡ, các NH thương mại vẫn ung dung bởi cơ chế lãi suất huy động và cho vay quá hấp dẫn. Hiện tại, với mức huy động vốn bình quân với lãi suất khoảng 14%/năm, trong khi đó lãi suất cho vay hiện nay, dẫu đã giảm nhưng vẫn ở mức bình quân là 16,23%/năm. Đặc biệt với lĩnh vực phi sản xuất là 18-22%/năm; lãi suất huy động USD bình quân là 4,65%/năm, cho vay là 6,83%. Như vậy, mức chênh lệch giữa huy động và cho vay, thường xuyên lớn hơn 2%. Đây là điều mà chỉ có ở Việt Nam.
Vậy làm thế nào để thoát khỏi tình trạng trên? Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Văn Nam, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng chính phủ cho rằng, chính sách tiền tệ của ta vẫn nửa vời. Việc kiểm soát lạm phát chủ yếu là dùng các biện pháp hành chính mà chưa có những biện pháp về tài chính. Chi tiêu công kém hiệu quả, vượt quá khả năng chịu đựng của ngân sách, nguyên nhân chính của lạm phát vẫn chưa được xử lý một cách triệt để. Chính sách lãi suất vẫn bị một nhóm các NH thương mại chi phối mà chưa có một cuộc cạnh tranh sòng phẳng theo cơ chế thị trường. Điều này, khiến các DN Việt Nam vẫn phải chịu chi phí giá vốn cao kéo dài.
Về thị trường chứng khoán, chuyên gia kinh tế Nguyễn Thạc Hoát nhận xét, tuy đã khởi sắc nhưng chưa đủ mạnh để hâm nóng nền kinh tế. Sự suy trầm kéo dài của thị trường bất động sản như một bóng đen đè nặng mà vẫn chưa thấy ánh sáng. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ và NHNN nên có chủ trương tiếp tục giảm lãi suất cho vay đối với các DN và có lộ trình đưa lãi suất cho vay trở về mức 11-12%/năm.
Việc thắt chặt tín dụng kéo dài với các DN bất động sản khiến thị trường này không ngóc đầu dậy được. Với Việt Nam, thị trường bất động sản hiện chiếm khoảng 20% GDP, khi thị trường này chưa tan băng thì chưa thể nói đến việc ấm lên của nền kinh tế. Đặc biệt là những khoản nợ xấu của các ngân hàng thương mại đang có nguy cơ biến thành nợ... thối nếu thị trường này không được phục hồi, hậu quả lúc đó sẽ lớn hơn nhiều.
Một chuyên gia trong ngành bất động sản cho rằng, đã đến lúc Chính phủ nên nới lỏng cho vay với thị trường bất động sản. Đặc biệt là nên cho người tiêu dùng vay vốn với lãi suất ưu đãi để người dân mua căn hộ đầu tiên, đây là biện pháp vừa có tác dụng kích cầu thị trường, vừa có ý nghĩa dân sinh.
Một số chính sách khác cũng cần được hoàn thiện như thông qua đề án thành lập quỹ phát triển nhà ở và quỹ đầu tư BĐS, quỹ tín thác BĐS nhằm tạo được nhiều kênh huy động vốn cung ứng cho thị trường BĐS. Cùng với đó là những sửa đổi căn bản về luật đất đai để quyền sở hữu đất đai được trao cho người chủ thực sự chứ không còn là những khoảng trống chủ quyền mênh mông để một số quan chức vô lương tâm có thể lấn chiếm một cách tuỳ tiện.
Doanh nghiệp là người lính tiên phong trên mặt trận kinh tế, hơn một phần ba số đó đã bị khai tử vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự thương vong nào cũng để lại nỗi đau và hậu quả khôn lường. Những chính sách tích cực đang được trông đợi vực dậy nền kinh tế.
Vef
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét