Chính
sách khủng bố nằm trong chiến lược của đảng cộng sản Việt Nam và họ đã
giấu nó dưới từ ngữ bóng bẩy là “Nhân dân nổi dậy và đồng khởi” để biện
minh cho hành động dã man của mình. Ngay từ khi quân đội Mỹ chưa có mặt ở
Việt Nam trước năm 65 và sau khi họ đã rút về nước thì hàng loạt các
cuộc bắn giết, khủng bố bừa bãi, ám sát vẫn diễn ra. Vậy người đảng cộng
sản đang “giết Mỹ” hay là giết chính đồng bào của mình? Trong bài viết
này tôi xin nêu ra một sự thật: chính đảng cộng sản ấy là kẻ đã xâm phạm
chủ quyền của nước khác một cách thô bỉ nhất. Sự kiện gây chiến và xâm
lăng của VNDCCH đối với VNCH đã được biết đến như một góc độ lịch sử đau
thương của dân tộc...
*
Phần 1: Những sự thật cần phải biết về Việt Nam Cộng Hòa - Bài 3: Nổi dậy hay khủng bố?
Đọc cuốn sách “Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam” của nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tái bản năm 2000 có đoạn:
“Trong giai đoạn 1957-1959, cách mạng
miền Nam gặp nhiều khó khăn. Hàng loạt cơ sở của ta bị chính quyền Ngô
Đình Diệm phát hiện và bắt giữ. Tháng 1/1959, diễn ra hội nghị lần thứ
15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam, đã quyết định cho
phép lực lượng miền Nam sử dụng bạo lực để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm.
Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang để lật đổ chính quyền Mỹ-Diệm, cao trào diễn ra ở các địa
phương: Bắc Ái (02/1959), Trà Bồng (08/1959)... phong trào lan nhanh ra
khắp miền Nam, đặc biệt là phong trào Đồng khởi ở tỉnh Bến Tre.
17/1/1960, phong trào nổ ra ở huyện Mỏ
Cày, tỉnh Bến Tre, sau đó lan ra các huyện Giồng Trôm, Thạnh Phú, Ba
Tri... phong trào đã phá tan từng mảng lớn chính quyền Mỹ-Diệm.
Từ Bến Tre, phong trào lan rộng ra khắp
miền Nam Việt Nam, Tây Nguyên, và các nơi khác như miền Trung. Cuối năm
1960, phong trào đã làm chủ nhiều thôn xã ở miền Nam, Tây Nguyên, và
ven biển miền Trung Việt Nam.
Sự thành công của phong trào đã chiếm
được nhiều vùng rộng lớn và thúc đẩy sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960).”
Đọc lướt qua thì hiển nhiên không thấy điều gì là bất ngờ. Nhưng thực sự
thì lại khác. Đảng cộng sản Việt Nam đã vô tình để lộ ra những tình
tiết mà đi sâu vào nghiên cứu chúng ta sẽ thấy hết sức mâu thuẫn với
thực tiễn lịch sử cũng như những tuyên truyền mang tính mị dân của đảng
cộng sản. Tại sao lại nói như vậy? Đó chính là nội dung mà tôi xin đề
cập đến trong bài 3 này trong loạt bài “Những sự thật cần phải biết”.
Những điều vô lý và mâu thuẫn trong đoạn trích nêu trên có liên quan
mật thiết đến Việt Nam cộng hòa – Một nạn nhân của chính sách ngậm máu
phun người mà tôi đã có dịp trình bày ở bài số 2 - Việt Nam Cộng Hòa - Nạn nhân của chính sách “Ngậm máu phun người”.
I. Nhân dân nổi dậy “đồng khởi” hay là hành vi can thiệp nội bộ của nước khác?
Như chúng ta đã biết cho đến ngày nay khi có đấu tranh nhân quyền hay
thậm chí là đấu tranh chống Trung cộng xâm lược hoặc chống lại hành vi
cướp đoạt đất đai, tài sản của nhân dân trong nước thì đảng cộng sản
Việt Nam luôn vu khống cho nhân dân yêu nước, bị oan khuất là làm theo “thế lực thù địch”
và bị Mỹ, tàn dư “ngụy” can thiệp vào nội bộ của một nước có chủ quyền.
Ai cũng biết điều này là hoàn toàn bịa đặt. Ngay cả bản thân tôi viết
bài này với tư cách là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Thiên đường mù mà cũng được rất nhiều chiến sỹ “còn đảng còn tiền”
phong cho là thế lực thù địch hải ngoại thì đủ thấy chính sách ngậm máu
phun người của đảng cộng sản nó lên đến mức thượng thừa như thế nào.
Những luận điệu ngậm máu phun người ấy thì ai không phải là đảng viên
cộng sản đều biết, có lẽ tôi không cần nhắc lại. Và trong quá khứ cũng
đã được làm sáng tỏ qua bài số 2
của tôi và hàng trăm cây viết có lương tri khác. Tuy nhiên trong bài
viết này tôi xin nêu ra một sự thật: chính đảng cộng sản ấy là kẻ đã xâm
phạm chủ quyền của nước khác một cách thô bỉ nhất. Sự kiện gây chiến và
xâm lăng của VNDCCH đối với VNCH đã được biết đến như một góc độ lịch
sử đau thương của dân tộc. Và trong bài này chúng ta thấy sự xâm lăng đó
đã được thể hiện ngay từ trong sự tổ chức chính trị hay nói cách khác
chính đảng cộng sản là “Kẻ can thiệp vào nội bộ của nước khác”.
Như chúng ta đã biết Việt Nam cộng hòa đã ra đời sau khi kết thúc chiến
tranh thế giới lần 2. Những sự kiện liên quan xin đọc thêm ở phần
11,12,13 của loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” của tôi đã đăng trên Danlambao. Và cho đến nay sự thật lịch sử đã chứng minh: Việt Nam cộng hòa đã được thành lập và đó là một quốc gia độc lập được quốc tế công nhận.
Điều này được chứng minh qua các tài liệu sau đây:
Thứ nhất, theo như tuyên bố của chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa về sự độc lập và dân chủ của mình thì thực tế VNCH đã được 56 quốc
gia trên thế giới công nhận trong khi đó VNDCCH lúc đó chỉ được có 10
nước cộng sản công nhận. Hãy đọc đoạn sau: “Những
tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế
giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản.
Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng
kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài
Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.” - (Tuyên Bố Của VNCH Về V/Đ Thống Nhất Đất Nước, Nguyễn Hội)
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là VNCH đã là quốc gia độc lập và có
chủ quyền, được các quốc gia khác công nhận. Như vậy về danh chính ngôn
thuận, VNCH không chịu áp lực chính trị hay chi phối của bất cứ quốc gia
nào khác về chủ quyền và nội bộ của VNCH.
Thứ hai, trong cuốn sách “Chỉ dẫn lịch sử” của nhà xuất bản quốc gia Liên Xô do nhóm tác giả tại viện nghiên cứu lịch sư Liên Bang Xô Viết tại trang 42 có viết “Việt
Nam Cộng Hòa là một Quốc Gia Hợp Pháp được công nhận bởi nhiều quốc gia
trên thế giới qua Hiệp Định Genève 1954, đã từng có quy chế là một quốc
gia quan sát viên của Liên Hiệp Quốc. Từ năm 1954 cho đến năm 1975.” Như
vậy ta có thể thấy được rằng ngay người đàn anh cộng sản Liên Xô của
cộng sản Việt Nam cũng phải công nhận tính chính danh và hợp pháp của
nước Việt Nam cộng hòa mà bất cứ nước nào cũng không có quyền xâm phạm.
Thứ ba, trong tài liệu của Liên Hiệp Quốc lưu chiểu tháng
2/1998 có ghi tại danh sách thành viên mục 3 trang 236 về Việt Nam cộng
hòa có đoạn: “84 quốc gia trên thế giới đã từng đặt nền tảng bang giao với Nước Việt Nam Cộng Hòa từ 1954 – 1975.”
Vậy thì cái quốc gia được công nhận đó có đáng bị can thiệp và bị xâm
lược hay không? Nhưng sự thật lại khác. Về sự xâm lược toàn diện của một
quốc gia với một quốc gia khác tôi xin dành ở bài 4 “Những sự thật cần phải biết”.
Trong khuôn khổ bài này tôi xin chứng minh phần nhỏ về sự “đồng khởi”
hay chính là một âm mưu can thiệp vào nội bộ chính trị của một quốc gia
có chủ quyền khác mà kẻ thủ ác không phải ai khác mà chính là đảng cộng
sản Việt Nam.
Qua ba tài liệu dẫn chứng của các bên cho thấy thực sự Việt Nam Cộng Hòa
là một quốc gia có chủ quyền được tồn tại dưa trên sự công nhận của
Liên Hiệp Quốc và hàng loạt các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới.
Vậy thì hành động “Tháng 1/1959, diễn
ra hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam,
đã quyết định cho phép lực lượng miền Nam sử dụng bạo lực để đánh đổ
chính quyền Mỹ-Diệm.” của đảng cộng sản nói lên điều gì? Đó
là chính đảng cộng sản Việt Nam đã can thiệp vào nội bộ của một quốc gia
khác khi ngang nhiên kích động và chỉ đạo lực lượng cánh tay nối dài
của họ chống phá nhà nước VNCH. Tiếp sau đó là chúng ta thấy thời điểm
họ ra nghị quyết chống lại một quốc gia độc lập là từ những năm 1959 còn
người Mỹ thì nhảy vào Việt Nam tận năm 1965 sau khi tổng thống Ngô Đình
Diệm mất vì tinh thần quốc gia không muốn người Mỹ vào Việt Nam của
ông. Điều đó cho thấy thêm một lần nữa chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” chỉ là một chiêu bài lừa phục vụ cho mục đích xâm lược một quốc gia độc lập khác của VNDCCH. Và cũng qua đây cho thấy chữ “dùng bạo lực”
ở đây chính là cho phép, khuyến khích các cuộc khủng bố đẫm máu tại
VNCH của chính quyền cộng sản. Hay nói cách khác chính đảng cộng sản là
tổ chức khủng bố.
Và ngay trong bài 2 của “Những sự thật cần phải biết”
tôi đã chứng minh hai điều: Mỹ không hề xâm lược Việt Nam và chính
quyền VNCH không phải là “ngụy” bán nước hại dân mà chính là một chính
thể biết lo cho dân nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại. Hơn thế nữa đó
là một chính quyền tạo ra sự no ấm, dân chủ, tự do cho một nửa đất nước
cho đến năm 1975. Vậy thì ai cần “nổi dậy”, “nổi dậy” để được cái gì?
Thực tế đã trả lời là do chính đội ngũ cộng sản nằm vùng dưới sự chỉ đạo
của đảng cộng sản VNDCCH giật dây.
Vậy thực chất các cuộc “đồng khởi” như cuộc nổi dậy ở Bến Tre là gì? Đó
chính là một trong những âm mưu chính trị bẩn thỉu của đảng cộng sản
Việt Nam nhằm vào Việt Nam Cộng Hòa.
Như trong bài 2 “Những sự thật cần phải biết”
tôi đã chứng minh đó là thực tế nhân dân VNCH có nền kinh tế, giáo dục,
y tế, đời sống... hơn hẳn so với VNDCCH. Vậy thì luận điệu “bị kìm kẹp”
của đảng cộng sản khi nói về nhân dân VNCH là hoàn toàn “ngậm máu phun
người”. Vậy thì tại sao nhân dân đang yên ấm lại phải đứng lên “đồng
khởi”, “nổi dậy” để làm gì? Và chính đoạn văn trên của cuốn sách “Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam”
đã hé lộ cho ta thấy thực tế đảng cộng sản đã chỉ đạo, giật dây những
cuộc “đồng khởi” ấy nhằm mục đích lừa dối nhân dân hai miền, âm mưu dùng
khủng bố để gây xáo trộn nhằm xâm chiếm VNCH bằng vũ lực theo chỉ đạo
của Trung cộng mà ông Hồ Chí Minh là một gián điệp tay sai cho Bắc Kinh
(Xin xem thêm phần 3, 4, 9, 10, 11, 12, 14 của “Những sự thật không thể chối bỏ”).
Và cái nghị quyết không thể che giấu của đảng Lao động (Tên gọi khác
của đảng cộng sản) kia đã phơi bày ra tất cả sự thật về sự tráo trở khi
tuyên bố những hành động biểu tình, đặt bom... của cộng sản tại VNCH là
hành động “nổi dậy” của nhân dân.
Về cơ bản chính đảng cộng sản Việt Nam đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm
và can thiệp của một quốc gia độc lập, có chủ quyền đó là VNCH. Điều
này hiện nay đã được hé mở nhiều hơn trong nhiều tài liệu gần đây.
Thứ nhất, trên trang chủ của đảng bộ tỉnh Bến Tre cũng đã công nhận sự kiện này. Đoạn văn có viết “Tháng
12-1959, Hội nghị đại biểu các tỉnh miền Trung Nam Bộ được triệu tập để
truyền đạt Nghị quyết 15 của Trung ương và bàn chủ trương chuyển hướng
phong trào. Đêm 2-1-1960, Hội nghị cán bộ lãnh đạo Bến Tre do Thường vụ
Tỉnh ủy triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày để truyền đạt nghị quyết của
Trung ương và bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá
thế kiềm kẹp của địch. Nghị quyết của hội nghị là phát động một tuần lễ
nổi dậy đồng loạt trong tĩnh từ 17-1-1960 đến 25-1-1960. Ngày 17-1-1960,
theo kế hoạch đã định, cuộc Đồng khởi nổ ra thắng lợi đúng như dự kiến
tại 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (Mỏ Cày).”
Bạn đọc có thể xem nội dung bài viết trên trang chủ của tỉnh ủy Bến Tre theo links sau: http://www. bentre.gov.vn/index. php? option=com_content&task=view&id=301&Itemid=47
Như vậy rõ ràng cộng sản Việt Nam công nhận sự “nổi dậy” của nhân dân
Việt Nam chính là một hình thức kích động bạo lực mà người khởi điểm là
đảng cộng sản. Vậy thì ai là kẻ can thiệp vào nội bộ quốc gia khác? Đó
chính là đảng cộng sản Việt Nam. Vậy mà họ luôn kêu gào sự xâm lăng một
quốc gia khác là “chính nghĩa” còn nhân dân trong nước oan ức biểu tình
ôn hòa họ lại cho là “bị thế lực nước ngoài can thiệp”. Thật là mâu
thuẫn đến mức lố bịch.
Thứ hai, nhưng theo một tài liệu do đảng cộng sản ấn hành, Việt Minh đã để lại miền Nam 60,000 đảng viên (trích trong Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học, Hà Nội, 1996): “Cán
bộ và đảng viên được đặt dưới quyền lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí
thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời hạn tập kết ở Cà Mau, sau
khi chúng ta đánh lừa địch bằng cách giả bộ lên tàu tập kết, đồng chí Lê
Duẩn đã tìm cách rời khỏi tàu vào lúc nửa đêm để ở lại.”
Như vậy, rõ ràng miền Bắc đã chuẩn bị tấn công miền Nam ngay khi Hiệp
Ước Genève chưa kịp ráo mực, chứ không phải vì miền Nam không chấp nhận
tổng tuyển cử vào năm 1956 hoặc vì có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ
tại miền Nam mà đảng cộng sản luôn tìm cách tuyên truyền mị dân.
Và kết quả là cuộc “đồng khởi” Bến Tre kia cũng chỉ là chiêu bài khủng
bố chính trị cũng như đời sống nhân dân VNCH dưới chiêu bài “Nhân dân Chống Mỹ”
mà thôi. Khi mà Mỹ chưa nhảy vào thì kích động “nổi dậy” làm gì? Đó
chẳng phải là hành động can thiệp vào nội bộ một quốc gia độc lập là gì
nữa?
Thứ ba, để kết hợp với sự kiện “Đồng Khởi” được kích động
bởi trung ương đảng cộng sản Việt Nam thì đảng cộng sản cũng tiến hành
công cuộc xâm chiếm chủ quyền một nước khác một cách bất hợp pháp một
cách có hệ thống. Họ cho thành lập đoàn 559 khi chưa có bóng dáng quân
Mỹ tại Việt Nam với khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước”.
Đây là nguyên văn bài viết trên trang của ban tuyên giáo trung ương Việt Nam “Ngày
19-5-1959, “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” - Đoàn 559 ra đời, với
nhiệm vụ mở đường, đưa đón cán bộ, bộ đội, vũ khí, đạn được, lương thực…
từ miền Bắc vào miền Nam và vận chuyển vật chất giúp nước bạn Lào. Được
khai sinh vào ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5), đường mang tên
"Đường Hồ Chí Minh".”
Bạn đọc có thể kiểm chứng ở website có địa chỉ sau: http://tuyengiao.vn/Home/Viet-Lao/Tu-lieu-lich-su/2012/10/46657.aspx
Thế ra đảng cộng sản đã chủ trương “đồng khởi” kết hợp với xâm chiếm
VNCH - một quốc gia hợp pháp ngay từ khi quân Mỹ còn ở tận đâu đó bên
nhà của họ. Trên thực tế người Mỹ trước năm 1965 chỉ vào Việt Nam dưới
dạng cố vấn xây dựng quân đội cũng như hoạt động nhân đạo. (Xem “Những sự thật cần phải biết” – bài 2).
Để làm rõ âm mưu kết hợp “đồng khởi” với xâm chiếm này thì hãy xem người
Liên Xô - đàn anh của cộng sản Việt Nam nói gì. Tài liệu của Liên Xô
đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” - bởi nhóm tác giả
đã từng hoạt động trong KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản
năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô (đã giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ – phần 13 -Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” có đoạn ở trang 130 có viết: “Chính
quyên VNDCCH dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh có đường lối rõ
rệt để có thể tiến công Miền Nam Việt Nam. Họ biết kết hợp kích động nổi
dậy do các chiến sỹ nòng cốt được cử vào Miền Nam làm chỉ huy với việc
cho xây dựng con đường vận tại chiến lược 559 sau này mang tên của chính
chủ tịch Hồ Chí Minh…”
Đoạn trích cho thấy Liên Xô đánh giá và nói rất đúng về cái gọi là “kích
động nổi dậy” và kết hợp xây dựng con đường nhằm gây nên cuộc chiến
huynh đệ tương tàn và phi nghĩa. Điều này minh chứng nhân dân “nổi dậy”
chỉ là cái hình thức cho một sự xúi giục có chỉ huy của cộng sản Việt
nam tại VNDCCH. Nhân dân cả hai miền đã bị cộng sản lừa!.
Thứ tư, một đồng minh khác của VNDCCH khẳng định chẳng có
cuộc “nổi dậy” tự phát nào của nhân dân như cách đảng cộng sản tuyên
truyền. Trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy – một
nhà hoạt động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp
(giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ – phần 14 – Ai làm cho Huế đau thương?”).
Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng
sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một
sự đối nghịch đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 192 của cuốn sách in
năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau: “Lực
lượng cách mạng do VNDCCH chỉ đạo làm rất tốt công việc đầu tàu trong
việc gây nên tâm lý hoang mang cho chính quyền ông Diệm tại Miền Nam
Việt Nam trong cuộc nổi dậy ở một số tỉnh Miền Trung và Bến Tre...”
Cuốn sách này của đảng viên đảng cộng sản cũng đã công nhận sự thật về
bàn tay của đảng cộng sản Việt Nam nhúng tay vào tất cả các hành động
được loan tin là “nhân dân nổi dậy” trước sự “kìm kẹp” của chính quyền
VNCH.
Kết luận:
Ở phần này chúng ta thấy Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập và
có chủ quyền xác lập, bang giao với nhiều nước trên thế giới. VNCH cũng
được LHQ công nhận và có chính thể tồn tại độc lập.
Hành động tự cho mình cái quyền xâm phạm nền chính trị của nước khác của
VNDCCH đứng đầu là đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh chính là sự xâm
phạm và can thiệp thô bạo vào chủ quyền chính trị cũng như công việc nội
bộ của VNCH.
Cũng chính đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đã kích động các cuộc “nổi
dậy” của những người nhẹ dạ nghe theo lời lừa phỉnh của đảng cộng sản đi
đến bạo lực thể hiện bằng ngay những lời mà đảng cộng sản công nhận qua
nghị quyết trong hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao
Động Việt Nam.
Điều này cho thấy chính đảng cộng sản Việt Nam là những kẻ không tôn
trọng chủ quyền chính trị cũng như quân sự của nước khác. Cũng từ đó
càng thấy rõ dã tâm xâm chiếm VNCH để nhuộm đỏ Việt Nam, gây nên sự suy
kiệt cho nội lực dân tộc để ông Hồ Chí Minh có thể toàn tâm thực hiện
giấc mộng bành trướng chủ nghĩa cộng sản và Hán hóa toàn cõi Đông Dương
của Trung cộng.
II. Khủng bố đẫm máu!
Để cụ thể hóa công việc tiến hành “nổi dậy” của mình thì đảng cộng sản
Việt Nam tiến hành nhiều phương án trong đó có biện pháp “đã quyết định
cho phép lực lượng miền Nam sử dụng bạo lực”. Đó chính là một hình thức
khủng bố được đảng cộng sản tô vẽ để tránh tội. Điều này sẽ được tôi
chứng minh rõ ở phần này.
1. Chính sách khủng bố:
Việc thực hiện chính sách khủng bố được đảng cộng sản lén lút thực hiện
với những lời lẽ như “nổi dậy”, “anh hùng”, “căm thù giặc”... để chối
tội. Nhưng cùng với thời gian và những phân tích cụ thể thì bộ mặt thật
đó đã hiện ra một cách rõ nét nhất.
Thứ nhất, trong cuốn sách “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học”, Nxb. CTQG, H, 1995, có đoạn viết: “Kết
hợp đấu tranh xuống đường với nổi dậy vũ trang khiến cho chính quyền
Mỹ-Diệm rối loạn và thiệt hại về kinh tế cho chúng là phương pháp cách
mạng bạo lực đem lại thành công...”
Qua đoạn trích ta thấy gì? Đó là một đảng chủ trương đem hình thức khủng
bố đến với nhân dân một nước khác mà họ lại đánh giá tự hào cho thấy
bản chất xấu xa của đảng cộng sản.
Ngoài ra điều này cũng minh chứng cho sự thật là các cuộc “nổi dậy” thực
chất chỉ là những cuộc kích động khủng bố của đảng cộng sản.
Thứ hai, trên trang chính dư địa chí của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế có links như sau:
Có đoạn viết: “Tháng
11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp tại bản Ấp Rùng, xã Thượng Long miền
Tây Thừa Thiên Huế. Hội nghị đã quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên
Huế thành căn cứ cách mạng. Tỉnh ủy bố trí cán bộ từ đồng bằng lên, cùng
với một số cán bộ đã cắm bản từ trước kiên trì bám trụ. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đồng bào nhanh chóng giác ngộ, phong trào đấu tranh chính
trị kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ bằng vũ khí thô sơ đã nảy sinh
trong phong trào quần chúng.
Giữa lúc phong trào cách mạng miền núi
Thừa Thiên Huế đang có bước chuyển biến quan trọng thì ánh sáng Nghị
quyết 15 (1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) về đường
lối cách mạng miền Nam được truyền đến Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà.
Tỉnh ủy khẩn trương tổ chức học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết
15 của Trung ương. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của Nghị quyết
Trung ương 15 là việc mở đường 559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi Thừa
Thiên Huế với con đường 559 nối liền mạch máu với cả nước từng bước trở
thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng.”
Cũng trên trang này ở bài viết khác có đoạn: “Sau
năm 1963, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tích cực, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt
nhằm đưa phong trào lên một thời kỳ mới, thời kỳ phá kìm, giành dân,
đưa phong trào đồng bằng lên thế đấu tranh chính trị, quân sự, tiến công
địch bằng cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận.
Đầu năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa
Thiên Huế chủ trương: “Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của
lực lượng vũ trang, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn mà tổ
chức lực lượng, tiến công mạnh mẽ, đều khắp, làm tan rã, tê liệt chính
trị, tư tưởng và tổ chức, phá ấp chiến lược, chuẩn bị thiết thực cho
việc phá thế kìm kẹp của địch”. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân Thừa
Thiên Huế bước vào phong trào đồng khởi đồng bằng năm 1964.
Đến mồng 5 rạng ngày 6/7/1964, phong
trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong tỉnh. Ở phía Bắc tỉnh,
nhân dân nhiều xã nổi dậy phối hợp với bộ đội và đội công tác võ trang
tiến hành tấn công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy quyền, tuyên bố
thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự quản của
nhân dân. Phong trào Đồng Khởi đã mở ra một vùng giải phóng rộng lớn
gồm nhiều xã: Phong Sơn, Phong An, Phong Thái, Phong Hòa, Phong Bình,
Phong Chương (Phong Điền), Phong Nhiêu, Quảng Thái (Quảng Điền) và Hương
Vân, Hương Thọ, Hương Hồ, Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương
Thạnh (Hương Trà). Ở phía Nam, lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân
tấn công và nổi dậy giải phóng các xã Phú Đa, Phú Hồ và một số thôn của
Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Xuân, Phú Lương (Phú Vang); Lộc An, Lộc Tụ (Phú
Lộc); nhiều thôn xã của xã Thủy Bằng, Thủy Thanh, Thủy Phương (Hương
Thủy)...”
Qua hai đoạn trích trên đây cho thấy xuyên suốt quá trình trước năm 1965
mặc dù chưa hề có quân Mỹ tại VNCH và đặc biệt là những chính sách của
nền đệ nhất cộng hòa như “Người cày có ruộng” hay “Cải cách kinh tế” đã
làm cho đời sống nhân dân đi dần vào ổn định thì hành động của đảng cộng
sản chỉ đạo hoàn toàn là dùng bạo lực khủng bố nhân dân, chính quyền và
xâm phạm quyền tụ chủ của đất nước khác. Những kích động bạo lực đó
minh chứng cho chủ trương sắt máu của đảng cộng sản.
Thứ ba, các bạn quay ngược lại phần 9 “Những sự thật không thể chối bỏ”
khi tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng - Hà Cẩn (Viện văn học
Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với
tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi NXB
Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 198 nói về
chiến Tranh Việt Nam. Đoạn đó tạm dịch như sau: “Với
sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung Hoa mà đứng đầu là Mao chủ tịch thì
nhân dân miền Bắc đủ sức chi viện và lãnh đạo các cuộc đánh bom, gài
mìn, nổi dậy tại Miền Nam của ông Diệm.”
Thì ra là như vậy. Trung cộng đã chỉ đạo và tài trợ cho VNDCCH vũ khí để
họ tiếp tục “lãnh đạo” nhân dân Miền Nam “khủng bố” và nổi dậy thông
qua các hành động đặt bom, cài mìn mà chính Hà Cẩn nêu đích danh.
Những hành động đó được gọi là gì? là khủng bố chứ không thể khác. Một
nhà nước đi kích động việc này có sai trái không? Và làm gì có quân Mỹ
thời điểm ông Diệm còn tại vị? Thế mà vẫn cứ khủng bố “chống Mỹ”. Thật
là vô lý.
Thứ tư, tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội người
Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp đã giới thiệu ở trên -
Trong cuốn sách của mình mang tên “Đối nghịch” vẫn ở trang 192 còn viết: “Sự quá đà trong việc sử dụng bạo lực cách mạng tại Miền Nam Việt Nam đã khiến cho nhiều dân thường tại Miền Nam chết oan...”
Thật ra tác giả cộng sản Pháp này nói đến “bạo lực cách mạng” như
một sự biện hộ cho những hành động khủng bố của đảng cộng sản đối với
nhân dân VNCH. Nhưng với một con người dù sao cũng nhìn nhận khách quan
hơn ông đã nói đến “sự quá đà” và những sự việc gây tang thương
cho nhân dân miền Nam một cách oan uổng. Vậy là thêm một bằng chứng cho
thấy chủ trương của đảng cộng sản: khủng bố.
Kết luận:
Như vậy chúng ta có thể thấy tất cả các tài liệu đều đi đến một điểm
chung đó là đảng cộng sản chủ trương sử dụng chính sách khủng bố trên
toàn cõi VNCH. Đây là một việc làm sai trái vì nó sai quy tắc ứng xử của
một quốc gia với một quốc gia khác. Đồng thời cho thấy chủ nghĩa khủng
bố là chủ trương của đảng CSVN. Không có một cuộc “nổi dậy” nào tự phát
mà đó chỉ là chiêu bài khích động khủng bố của đảng CS mà thôi. Vậy hậu
quả của nó gây ra cho VNCH thế nào? Xin xem tiếp tại phần dưới đây.
2. Tang thương cho nhân dân VNCH:
Những hậu quả để lại cho nhân dân VNCH dưới chính sách khủng bố của đảng
cộng sản Việt Nam rất lớn lao. Trong khuôn khổ bài này tôi xin chỉ dẫn
ra những ví dụ nhỏ bé trong vô vàn sự kiện để nói lên tính chất dã man
của đảng cộng sản Việt Nam trong âm mưu khủng bố quốc gia khác.
Thứ nhất, trên trang baomoi.com có dẫn trích một bái báo của báo quân đội nhân dân của đảng cộng sản Việt Nam có links:
Có đoạn viết nguyên văn như sau: “Diễn
biến trận đánh như sau: Phi Long đi xe máy mô-bylet chở một trái mìn đi
trước, đồng chí Rãy đạp xe giả làm người bán báo chở một trái DH10 đi
sau đủ tầm nhìn thấy nhau. Gần đến cầu Hang, Phi Long đi chậm lại quan
sát, chờ thời cơ vượt trạm gác. Khi người dân tập trung đi về phía giữa
cầu, lợi dụng đông người che khuất, Phi Long cho xe vượt qua, đồng chí
Rãy cũng đạp xe theo qua khỏi trạm gác cùng lao nhanh về hướng mục tiêu.
Dừng lại một phút để quan sát, thấy 3 tên cảnh sát vẫn đứng trước cầu
thang lên xuống nhà hàng, còn phía trên bờ sông 4 tên cảnh sát đứng dàn
hàng ngang súng tiểu liên cầm tay, hai tên công an chìm đi lại ngay bãi
trống đối diện nhà hàng. Tại các ngã tư địch tăng cường xe bọc thép và
bọn lính dã chiến hình thành thế bảo vệ quanh mục tiêu. Đây là một sự
bất thường xảy ra trong khu vực, một tình huống ngoài dự kiến. Nhưng Phi
Long quyết tâm là phải đánh và đây cũng là thời cơ đánh khi địch tập
trung cao nhất. Anh động viên đồng chí Rãy: Dù hy sinh hai anh em mình
cũng phải hoàn thành nhiệm vụ trước Đảng và Quân đội trong trận đánh
này. Quan sát thêm, Phi Long thấy có vài người bán hàng rong qua lại
trước mục tiêu và kế đó lại có hàng bán thuốc lá. Nhìn đồng hồ đeo tay
chỉ còn vài phút nữa thôi, Long liền chạy xe cập mục tiêu.
Long tự nhủ thật bình tĩnh để địch
không nghi ngờ phát hiện, anh dừng xe máy nhắm đúng hướng mìn thổi vào
2/3 thân tàu. Mồ hôi rịn đầy trên trán, song anh vẫn cố tỏ ra ung dung
thản nhiên móc tiền bước đến quầy mua thuốc lá, những tên công an vẫn
qua lại không biết gì. Chỉ còn 2 phút nữa thôi, trái mìn DH10 sẽ nổ. Anh
nhanh chóng đi đến bên cạnh công viên, áp sát người vào một trụ cột,
lợi dụng bóng tối bỏ 2 trái thủ pháo xuống sông rồi lẹ làng lách người
qua công viên cách đó 5m nhảy lên chiếc xe gắn máy mà đồng chí Tám Sâm
đã để sẵn.
Đồng chí Rãy cũng đã gài xong quả mìn
định hướng thứ hai. Hai người lên xe, vừa chạy ra khoảng 50m thì trái
mìn thứ nhất mà Phi Long gài đã nổ. Lao xe đến bùng binh Nguyễn Huệ thì
Long bị cảnh sát chặn lại khám xét, kiểm tra thấy giấy tờ hợp pháp bọn
chúng để cho hai người đi. Vừa lúc đó, trái mìn thứ hai của đồng chí Rãy
gài nổ tiếp. Cả Sài Gòn như bừng lên khí thế tiến công. Tiếng còi báo
động của địch vang lên inh ỏi, đường phố trở nên một cảnh tượng hỗn
loạn, chỉ riêng những người lính đặc công biệt động mừng vui khôn tả.
Vài phút sau, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng
có mặt và chứng kiến cảnh tan nát này đã lắc đầu thất vọng và ủ rũ cúi
đầu leo lên xe như không dám tin vào những gì vừa xảy ra.
Ngày 23-6-1965, Huỳnh Phi Long được cấp
trên tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhất, các đồng chí Lê Văn
Rãy, Tám Sâm, Kiều Nương và Nguyễn Thị Hoài đều được tặng huân chương
Chiến công hạng 3. Riêng tập thể đội biệt động 67 được tặng thưởng huân
chương Quân công hạng 3.”
Qua đoạn trích ta thấy gì? Đó là sự chuẩn bị khủng bố kỹ lưỡng và hết
sức táo tợn. Còn ngay sau đó là sự kiện ông Long và đội quân khủng bố
của ông được thưởng huân chương cho thấy tính chất dã man không còn tính
người của những người cộng sản. Hãy xem vài bức ảnh trong cuộc khủng bố
đó để thấy sự thật:
Nhà hàng Mỹ Cảnh |
Khủng bố Huỳnh Phi Long |
Thứ hai, Uwe Siemon-Netto, ký giả nổi tiếng người Đức sau khi đi theo một tiểu đoàn Miền Nam vào ngôi làng bị Việt cộng khủng bố năm 1965 báo cáo như sau:
“Lung lẳng trên các cành cây và sào
trong sân làng là thân xác xã trưởng, người vợ va 12 đứa con vừa trai,
vừa gái kể cả cháu bé. Tất cả nam đều bị cắt cu dái nhét vào mồm, còn nữ
bị cắt rời vú. Dân làng được lệnh bắt buộc tập trung chứng kiến cảnh
tàn sát. Việt cộng bắt đầu giết em bé rồi với một điệu bộ thao diễn chậm
rãi ra tay lần lượt giết các em lớn, tới giết người mẹ và sau cùng là
giết người cha. Việt cộng đã giết cả nhà 14 người, giết một cách lạnh
lùng như thể bấm cò súng đại liên bắn máy bay”.
“Việc VC tàn sát thế này là việc bình
thường hàng ngày... Vì với chúng tôi nó đã trở thành bình thường nên
chúng tôi không tường thuật tới, tường thuật lui mãi mãi”.
Đây là đoạn tạm dịch của nguyên bản tiếng Anh “Dangling
from the trees and poles in the village square were the village chief,
his wife, and their twelve children, the males, including a baby, with
their genitals cut off and stuffed into their mouths, the females with
their breasts cut off". The Vietcong had ordered everyone in the village
to witness the execution. They started with the baby and then slowly
worked their way up to the elder children, to the wife, and finally to
the chief himself... It was done very coolly, as much an act of war as
firing anti-aircraft gun. " It was routine... Because it became routine
to us, we did not report it over and over again”. (Trích trong cuốn “The Real War” của cựu tổng thống R. Nixon trang 39-40.)
Qua đây cho thấy bản chất dã man của đảng cộng sản mà nhân dân VNCH phải
gánh chịu. Họ đâu có “nổi dậy” mà thực chất họ đang khủng bố một quốc
gia khác.
Thứ ba, vụ thảm sát mậu thân tại Huế năm 1968 cũng là một
trong những minh chứng tang thương cho số phận của nhân dân vô tội VNCH
trong chính sách tàn bạo và khủng bố của đảng cộng sản. Bạn đọc có thể
đọc lại những con số khủng khiếp của sự kiện này tại phần 14 - “Những sự thật không thể chối bỏ - Ai làm cho Huế đau thương”.
Tôi xin chỉ nêu lai một điều đó là qua các dẫn chứng trong phần 14 của
các bên liên quan cho thấy con số từ 4000-5000 là con số người chết oan
trong tết mậu thân 1968 ở Huế.
Vấn đề con số chính xác đến từng người không phải là vấn đề quá quan
trọng. Ở đây là dù với con số hàng nghìn, 4000 hay 5000 nghìn cũng cho
thấy tội ác mà cộng sản đã gây ra cho nhân dân Huế vô tội. Đó là tội ác
giết người cần phải được lên án.
Thứ tư, sự kiện pháo kích tại Cai Lậy. Là chiến dịch khủng
bố Việt cộng đã pháo kích hỏa tiễn (DKZ 122 mm) vào trường tiểu học tại
thị trấn Cai Lậy, tỉnh Định Tường, (Tiền Giang) ngày 9 tháng 3 năm
1974. Đúng ngay vào lúc các em đang trong giờ ra chơi. Giết chết 32 em
học sinh và 55 học sinh khác bị thương. Vụ thảm sát tuy nổi tiếng, gây
ấn tượng mạnh trong dân chúng lúc bấy giờ nhưng không được thế giới biết
đến nhiều, cũng như không được báo chí nhắc đến.
Hiện còn 3 người tận mắt chứng kiến cuộc pháo kích của VC sáng ngày
9/3/1974 vào Trường Tiểu Học Cộng Đồng Cai Lậy thuộc tỉnh Định Tường làm
chết tại chỗ 29 em học sinh. Chính ba người này đã đích thân bồng các
em bị thương đầy máu me lên xe cứu thương chở về Trung Tâm Y Tế Toàn
Khoa tỉnh Định Tường cấp cứu. Ba người này, 2 người hiện đang sống ở
Westminster, California, Hoa Kỳ; 1 người hiện sống tại Jacksonville,
Florida, Hoa Kỳ.
...Hỡi bé thơ ơi, sao tội tình gì em lại bỏ đi, em lại bỏ đi
Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp,
Bạn bè còn ngồi chăm chỉ lắng nghe.
Sao em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi....
(Nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác bài hát nhằm tố cáo Việt cộng
pháo kích dã man vào trường tiểu học ở Cai Lậy)
Sự kiện tại Định Tường đã không được báo chí nhắc đến nhiều và phía đảng
cộng sản cho rằng đó chỉ là sự “bịa đặt” nhưng rất may mắn là nhân
chứng còn sống và những hình ảnh như trên đã nói lên tất cả sự thật.
Nhưng ngoài ra rất may một tài liệu của nhóm KGB tại Liên Xô đã xác nhận
sự kiện này. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn”
– bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên
bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô (đã
giới thiệu ở trên) có đoạn ở trang 200 nhắc: “Có
vài sự kiện mà phía quân đội VNDCCH gây ra thiệt hại cho trẻ nhỏ mà sau
này được giấu đi như một phần tất yếu của cuộc chiến như cuộc tấn công
băng DKZ và 122mm vào một trường học tại Miền Nam Việt Nam năm 1974”. Cuốn sách như một lời khẳng định của người đàn anh Xô Viết cho sự kiện gây tội ác này của đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ năm, về sự thật của cuộc “nổi dậy” tại Bến Tre hãy nghe những người đứng đầu chế độ cộng sản kể thành tích.
Trong cuốn Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, 1985, tr. 397 có viết: “Cuối
năm 1959 tại nhiều nơi ở Nam Bộ, quần chúng đã vùng lên diệt ác, phá
kìm, khiến cho bộ máy tề ngụy của hàng trăm thôn, xã phải tan vỡ. Đặc
biệt đêm 17-1-1960, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Bến Tre, nhân dân huyện
Mỏ Cày đã nổi dậy khởi nghĩa đồng loạt mở đầu cho một cao trào mới. Từ
đó, làn sóng “Đồng khởi” như nước vỡ bờ lan ra toàn tỉnh Bến Tre và khắp
các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ”(1).
“... Những cuộc đấu tranh cách mạng ấy
thực chất là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, bao gồm những cuộc khởi
nghĩa từng phần, để giành thế mạnh về chính trị, xây dựng một hình thức
chính quyền cách mạng ở thôn xã, hình thức bước đầu lực lượng vũ trang
của nhân dân”(2).
* Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn
miền Nam do TƯCMN và Quân ủy miền chủ trì (1968) có đại biểu các tỉnh,
thành và Bộ Tư lệnh các quân khu 5, 6, 7, 8, 9 và đặc khu Sài Gòn - Gia
Định về dự đã nhất trí tuyên dương 3 tỉnh đạt những thành tích xuất sắc
trong sự nghiệp chống Mỹ (giai đoạn 1954 - 1968) với các danh hiệu sau
đây:
1 - Tỉnh Bến Tre: “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ diệt ngụy”.
2 - Tỉnh Long An: “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”.
3 - Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”
(Bạn đọc có thể kiểm chứng tại links thành ủy Bến Tre:
Và kết quả của nó ra sao? Trong bài giảng về lịch sử của đảng cộng sản có viết: “Sau một tuần: 22 xã được giải phóng, 29 xã khác tiêu diệt ác ôn, vây đồn, giải phóng nhiều ấp”. Các bạn có thể xem tại links:
Như vậy cho thấy những người cộng sản rất hả hê về những “thành
tích” khủng bố của họ mà cụ thể là họ làm cho các xã phường tiêu điều và
kiệt quệ, dân lành bị chết oan.
Thứ sáu, vụ ám sát ông giáo sư Nguyễn Văn Bông mà cho đến
nay người cộng sản cho rằng đó là thành tích của họ. Trên tờ báo Dân
Việt của đảng cộng sản Việt Nam có bài báo “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn”
Theo wikipedia, ông Nguyễn Văn Bông (ảnh trái)
sinh ngày 2/6/1929 tại Gò Công (Tiền Giang) trong một gia đình lao
động. Ông nổi tiếng là một học sinh học giỏi và tự lập. Năm 12 tuổi đã
tự làm những nghề như sửa xe đạp, phụ đánh máy, quét dọn trường học để
kiếm tiền đi học (vì cha mẹ ly dị). Ông tự đi du học bên Pháp, tốt
nghiệp với bằng tú tài, cử nhân luật từ Đại học Sorbonne (1956), tiến sĩ
chính trị học (1960), thạc sĩ công pháp quốc tế (1962). Ông về nước dạy
học, và sau này giữ chức viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh (thời
ông Thiệu). Cuối năm 1968 ông làm chính trị, thành lập Phong trào Quốc gia cấp tiến,
một tổ chức đối lập với chính phủ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông
bị mưu sát lần đầu vào năm 1968, nhưng đến lần 2 (1971) ông bị ám sát
chết lúc mới 42 tuổi. Gs Nguyễn Văn Bông qua đời để lại vợ mới 30 tuổi,
hai trai và một gái. Sau 1975, vợ ông là Lê Thị Thu Vân, còn gọi là “Cô
Út” (người ông gặp ở Paris) bà tái giá với một nhà ngoại giao Mĩ là Lacy
Wright, và lấy tên mới là Jackie Bông Wright. Sau này bà có viết và
xuất bản một cuốn sách giống như hồi kí có tựa đề là Autumn Cloud: From Vietnamese War Widow to American Activist (Mây mùa thu: từ một góa phụ chiến tranh đến một người hoạt động xã hội).
Lúc mới nghe tin ông bị ám sát, phu nhân ông là bà Thu Vân tố cáo thủ
tướng Trần Thiện Khiêm là thủ phạm giết hại chồng bà. Lời tố cáo này
xuất phát từ suy luận rằng Gs Nguyễn Văn Bông đã nhận lời làm thủ tướng
trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu (và thế là ngăn chận bước đường công
danh của ông Trần Thiện Khiêm - người sau này là thủ tướng). Thế nhưng
bà Thu Vân đã sai. Người ám sát Gs Nguyễn Văn Bông là ông Vũ Quang Hùng,
tức tác giả bài viết đã nói trên trong tờ Dân Việt. Ông Vũ Quang Hùng,
theo như một nguồn tin, lúc đó là sinh viên năm thứ ba Đại học Khoa Học
Sài Gòn (tức Đại học Khoa học Tự nhiên ngày nay) và là thành viên của tổ
trinh sát vũ trang của Ban An Ninh T4. Còn người ngồi sau xe honda là
Lê Văn Châu như trong bài báo tường thuật là trung úy quân đội VNCH
nhưng đồng thời cũng là cơ sở của An Ninh T4. Nhưng chi tiết về cuộc ám
sát thì chỉ mới tiết lộ gần đây, nhất là qua bài báo tuần này. Theo lời
kể trên Dân Việt thì hai người trinh sát giết ông bằng cách ném cái cặp
da chứa chất nổ và lựu đạn dưới gầm xe của ông đang ngừng tại đèn đỏ ngã
tư cao Thắng – Phan Thanh Giản. Giáo sư Nguyễn Văn Bông chết tại chỗ
cùng những người thân cận ông (3 vệ sĩ và 1 tài xế).
Vũ Quang Hùng, Lê Văn Châu và chiếc xe của ông Nguyễn Văn Bông |
Và tên khủng bố Vũ Quang Hùng đã kể lại hành vi giết hại một giáo sư, một nhà giáo của mình một cách tự hào như sau “Và
nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn
Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân
sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.
Đoạn ghi lời nói trên cho thấy tình chất dã man của đảng cộng sản vì tại
sao họ lại phải giết hại một giáo sư dạy học và họ lại phải lo sơ sự
dân sự hóa chính quyền VNCH? Đó chính là sự thật là đảng cộng sản chẳng
phải chống chính quyền quân sự của ông Thiệu như họ từng tuyên bố mà họ
chống cả những người đang theo đuổi mục đích dân sự và dân chủ hóa VNCH.
Vậy thì làm gì có chính danh “giải phóng” ở đây? Đó thực sự là chính
sách khủng bố.
Thứ bảy, Còn rất, rất nhiều trường hợp nữa mà trong khuôn
khổ vài bài viết cũng không thê kể hết tội ác khủng bố của đảng cộng sản
với nhân dân Miền Nam. Trong dẫn chứng thứ bảy này tôi chỉ xin gửi đến
bạn đọc 1 links bài viết vê âm mưu khủng bố ám sát tổng thống một quốc
gia độc lập được chính đảng cộng sản công nhận để bạn đọc nghiền ngẫm.
Bài viết trên trang Dantri của đảng cộng sản Việt Nam:
Và kèm theo một số hình ảnh hâu quả của đặt mìn, khủng bố cho thấy nhân
dân VNCH đã chịu bao nhiêu sự đau khổ trong chính sách khủng bố của đảng
cộng sản Việt Nam.
III. Kết luận chung
Chính sách khủng bố nằm trong chiến lược của đảng cộng sản Việt Nam và họ đã giấu nó dưới từ ngữ bóng bẩy là “Nhân dân nổi dậy và đồng khởi”
để biện minh cho hành động dã man của mình. Ngay từ khi quân đội Mỹ
chưa có mặt ở Việt Nam trước năm 65 và sau khi họ đã rút về nước thì
hàng loạt các cuộc bắn giết, khủng bố bừa bãi, ám sát vẫn diễn ra. Vậy
người đảng cộng sản đang “giết Mỹ” hay là giết chính đồng bào của mình?
Hậu quả chúng ta thấy rõ toàn thường dân, trẻ em vô tội. Thật là độc ác.
Ngoài ra cũng có thể thấy là việc một quốc gia khác kích động và gây ra
khủng bố tại một quốc gia khác là hoàn toàn trái luật quốc tế và là hành
vi đáng lên án và kết tội khủng bố. Bấy lâu nay chính đảng cộng sản
đang tự vả vào mặt mình khi nói họ chính là những tên thù địch, kẻ khủng
bố đi xâm lược và khủng bố quốc gia khác.
Một tội ác không thể bỏ qua!
27/11/2012
________________________________
Những bài liên quan:
- Những sự thật cần phải biết (2) - Việt Nam Cộng Hòa - Nạn nhân của chính sách “Ngậm máu phun người”
Những sự thật không thể chối bỏ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét