2009/10/17,21:39
Hồi đi học cứ lấy anh Tám ra làm gương viết văn, là tấm gương của đoàn thanh niên cộng sản khi mới kết nạp vào Đội, Đoàn đấy.
Công viên Lê Văn Tám ngay nhà mình, có trường, đường Lê Văn Tám...
lại còn gần cả....Thị Nghè nữa
............
"Theo
quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống
bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở
khoa học khách quan, chân thực" - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh sau khi giải thích về hình tượng nhân vật Lê Văn Tám.
Bấy
giờ là vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi có nhiều dịp làm việc
với GS Trần Huy Liệu trong công trình khoa học do GS chủ trì và tôi
được mời tham gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa
học xã hội, kiêm Viện trưởng Viện Sử học. Ngoài những buổi họp ban biên
soạn ở cơ quan, tôi có một số buổi làm việc với GS tại nhà riêng.
Ngoài
công việc biên soạn công trình, GS thường trao đổi một cách thân tình
những vấn đề thời sự sử học trong và ngoài nước, kể lại một số chuyện
trong đời hoạt động cách mạng của mình. Trong những năm 1954 - 1956, khi
tôi đang học ở Trường đại học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, GS Trần Huy Liệu
có đến giảng một số bài về cách mạng Việt Nam.
Về
câu chuyện Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và
lời dặn của GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: Nhân vụ
kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 - 1945 và
được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của
Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp
đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu
niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách
đấy mấy chục mét.
GS
Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa
tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt
cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy
bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là
vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của
GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài Bác sĩ để xác nhận
thêm.
Tôi
nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề "hư cấu" sự kiện kho xăng địch ở
Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ "dựng lên",
theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho
xăng địch.
GS
giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh
vì Tổ quốc, nhưng "dựng" chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu
tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt
tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến
Cách mạng tháng Tám.
Lúc
bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên
truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một
biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân
dân ta.
Cũng
xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên
truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28 - 8 - 1945 đến ngày 1 - 1 -
1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động trong Chính phủ liên hiệp
lâm thời từ ngày 1 - 1 - 1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp
kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2 - 3 - 1946, nghĩa là trong thời
gian xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy, chứ không phải trong
thời gian "1946 - 1948?" sau sự kiện trên.
Điều
căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh
là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong
câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung
tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia
đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong
tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và
đối với lịch sử.
GS
Trần Huy Liệu là một con người rất trung thực, không muốn để lại một sự
ngộ nhận trong lịch sử do mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu
bức xúc của cuộc kháng chiến và tôi lĩnh hội lời dặn của GS như một
trách nhiệm phải thực hiện một cách nghiêm túc.
Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.
Ngày
nay, từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại, trong hoàn cảnh chiến tranh đã lùi xa
vào quá khứ hơn 30 năm, đất nước đã giành lại độc lập, thống nhất, tôi
xin đặt ra hai vấn đề sau đây để thế hệ chúng ta cùng bàn luận.
- Xác minh rõ sự kiện Kho xăng địch bị đốt cháy trong tháng 10-1945.
- Thái độ ứng xử đối với biểu tượng Lê Văn Tám.
Vấn
đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm tư liệu đáng tin cậy để xác định rõ
hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng 10-1945:
Tôi
nói tư liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không phải là các sách
báo viết về sau này, mà là tư liệu gốc khai thác từ nhân chứng lịch sử
hay những thông tin trực tiếp từ sự kiện thời bấy giờ và dĩ nhiên đều
phải đối chiếu, xác minh một cách khoa học.
Tôi
đã có dịp hỏi GS Trần Văn Giàu - lúc đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến Nam bộ, thì GS khẳng định có sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị
đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết ai tổ
chức và người nào thực hiện.
Nhà
cách mạng lão thành Dương Quang Đông trong hồi ký viết rằng, người đốt
Kho đạn Thị Nghè ngày 1-1-1946 không phải là Lê Văn Tám mà là tổ đánh
mìn của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán (tạp chí Xưa & Nay số 154).
Tư
liệu báo chí lúc bấy giờ thì tại Thư viện Quốc gia Hà Nội lưu giữ được
rất ít, các số báo lại không đủ. Bước đầu tôi mới tìm thấy thông tin
liên quan với Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy trong báo Quyết chiến là "cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân", tòa soạn đặt ở phố Nguyễn Tri Phương, Thuận Hóa; báo Cờ giải phóng là "cơ quan tuyên truyền cổ động trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương" và báo Thời mới do Nguyễn Văn Luận làm Chủ nhiệm; nhưng các số không liên tục, không đủ.
Báo Quyết chiến số ngày thứ sáu, ? - 10 - 1945 đưa tin dưới tít lớn Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình đốt cháy kho dầu Simon Piétri
với nội dung như sau: "Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm.
Một chiến sĩ
ta tẩm dầu vào mình tự làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Piétri,
lửa cháy luôn hai đêm hai ngày.
Đài
Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối 17 - 10 công nhận rằng kho dầu này
đã hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt hại đến mấy chục triệu đồng".
Ngày
phát hành số báo, in ngày "thứ sáu", số ngày không rõ và có người viết
thêm bút mực con số 7, tiếp theo là tháng "10 - 45". Theo lịch năm 1945,
trong tháng 10 có 3 ngày thứ sáu là ngày 12, 19 và 26. Trong bản tin có
nhắc đến buổi phát thanh của Đài Sài Gòn ngày 17, vậy ngày thứ sáu của
tờ báo phải sau ngày đó và có thể xác định là ngày 19 - 10 - 1945.
Báo Thời mới số 6 ngày 28 - 10 - 1945, nhân lễ khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội Sinh viên cứu quốc tổ chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ,
có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo lời kể của một
người từ Nam Bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau: "Một người bạn tôi ở
Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe
mắt thấy ở Nam Bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh dũng đó.
Thứ nhất là chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-xăng
và cao su sống ở Sài Gòn.
Có
người nói rằng nhà chiến sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông
giầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự châm mình như một cây đinh liệu, xông vào
kho cao su sống kia. Không phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn
lại ngay từ khi chưa tới cửa kho.
Thực
ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu nhiều lắm. Trước khi
vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc giặc Pháp canh phòng
không cẩn thận, trèo lên những cái cây to ở xung quanh kho cao su, bắn
tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến sĩ, nhằm chính lúc cơ
hội thuận tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng liên thanh, bò qua
tường vào trong kho cao su tìm bắn những người Pháp. Chúng bâu lại như
đàn ruồi.
Chiến
sĩ Việt Nam biết không thể làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những
thùng ét-săng ở hai bên, ét-săng tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một
mồi riêm vào người, nhảy lên đám thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ.
Trong
lúc đó, cả mình mẩy anh bừng bừng lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho
đến khi gục nằm xuống như một đấng thiên thần hiện ra rồi mờ đi trong
giấc mơ dữ dội. Những người đứng xa ngoài ba mươi cây số còn trông thấy
ngọn lửa đám cháy này và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp và phái
bộ Anh không thể nào rập tắt".
Báo Cờ giải phóng
số ra ngày 25-10-1945, đưa lên trang đầu hình ảnh một người đang bốc
cháy xông về phía trước kèm theo lời "Tinh thần anh dũng của đồng bào
Nam Bộ muôn năm".
Báo Cờ giải phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm:
"trích đăng một vài tấm gương xung phong anh dũng đã được nêu lên trên
mặt báo chí miền Nam", có đoạn đưa tin: "Trước kho đạn Thị Nghè có rất
đông lính Anh, Ấn, Pháp gác nghiêm ngặt, khó bề đến gần phóng hỏa.
Một
em thiếu sinh 16 tuổi, nhất định không nói tên họ, làng, tình nguyện ra
lấy thân mình làm mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu xăng,
sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô "Việt Nam
vạn tuế", chân chạy đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra như
mưa. Một lần trúng đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luồn
vào.
Lính Anh khiếp đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho đạn Thị Nghè của giặc".
Dưới bản tin có ghi chú "Kèn gọi lính, ngày 8 - 10 - 1945". Như vậy báo đưa tin theo tin của báo Kèn gọi lính ngày 8 - 10 - 1945 và theo đó, kho đạn bị đốt cháy phải trước ngày 8 - 10 - 1945, ít ra là ngày 7-10-1945.
Trên
đây là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự kiện
liên quan đến chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan tâm
đến chuyện này có thể tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà tôi
chưa được tiếp cận.
Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.
Trong những báo trên, thông tin sớm nhất là Kèn gọi lính do báo Cờ giải phóng trích đăng ngày 5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ theo đoạn trích của Cờ giải phóng. Theo thông tin này thì "một em thiếu nhi 16 tuổi" đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải kho xăng Thị Nghè.
Báo Quyết chiến
ngày 19? - 10 - 1945 lại đưa tin "kho dầu Simon Piétri" bị "một chiến
sĩ ta" đốt cháy vào trước ngày 17 - 10 - 1945. Kho đạn ở Sở thú và kho
xăng ở Thị Nghè là hai địa điểm gần nhau. Như vậy theo những thông tin
gần thời điểm xảy ra sự kiện thì vẫn còn phải tìm thêm cứ liệu để xác
định là kho đạn hay kho xăng và thời điểm là ngày nào, chắc hẳn trước
ngày 17 - 10 - 1945.
Rồi người thực hiện là "em thiếu nhi 16 tuổi" (Kèn gọi lính) hay "một chiến sĩ ta" (Quyết chiến) hay "anh dân quân tẩm dầu vào người" (Thời mới). Việc tẩm xăng vào người, lúc đó cũng đã gây ra sự bàn luận.
Thời mới
đã bác bỏ chuyện người chiến sĩ tẩm dầu vào người xông vào kho xăng vì
"không phải thế, làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi
chưa tới cửa kho" và cho rằng người chiến sĩ phải "dùng mưu nhiều lắm"
để lẻn vào gần kho xăng rồi mới "tẩm dầu vào người", dùng súng bắn thủng
các thùng xăng và châm diêm vào người, nhảy vào đám thùng xăng. Không
biết tác giả dựa trên căn cứ nào nhưng về khách quan, cách trình bày này
hợp lý hơn.
Với
những thông tin đã tập hợp, tuy chưa đủ và còn một số khía cạnh chưa
xác minh được (kho xăng hay kho đạn, thời điểm, người đốt) nhưng sự kiện
kho xăng (hay đạn) của địch ở Thị Nghè (hay gần Thị Nghè) bị ta đốt
cháy là có thật.
Ngay
lúc đó, trên báo chí đã xuất hiện những thông tin khác nhau về người
đốt và cách đốt kho xăng, tuy nhiên có điểm chung là gắn với hình ảnh
một chiến sĩ tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch và không có tên Lê Văn Tám
hay tính danh của người chiến sĩ đã hi sinh.
Điểm
lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện
có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS
Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng "ngọn đuốc sống" gắn với tên tuổi
thiếu niên Lê Văn Tám.
Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám":
Trong
bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám" đã đi
vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật
hay không, làm ảnh hưởng tới một "biểu tượng", một "tượng đài" yêu nước.
Tôi quan niệm hoàn toàn khác.
Đối
với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một
nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ
nhiên, với trách nhiệm công dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ
thể nào đó liên quan đến bí mật quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống
còn của dân tộc, nhà sử học chưa được công bố.
Về
nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học càng khách quan và trung thực,
càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận thức lịch sử đúng đắn và không
có gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch sử, các tượng đài yêu nước có
giá trị được nhân dân tôn vinh.
Ngay
đối với những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như Lạc
Long Quân - Âu Cơ, Con Rồng - Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần
An Dương Vương, vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên
cứu khoa học chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử
của biểu tượng.
Ví
dụ những phát hiện khảo cổ học về đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn, kho
mũi tên đồng ở Cổ Loa và gần đây, hệ thống lò đúc mũi tên đồng ngay
trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn cốt lõi
lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai trò của nỏ thần của
An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm vẫn nguyên
giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi việc nghiên cứu giống
rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...
Biểu
tượng "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám" thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi
sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh
dũng, ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ
kháng chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang
tên Lê Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn,
cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám.
Đó
không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự
kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là
một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả
lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận
thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.
Tôi
nghĩ rằng tất cả các đường phố, trường học, công viên... mang tên Lê
Văn Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng với nội
dung giải thích đúng sự thật và ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên lý lịch Lê
Văn Tám như một nhân vật có thật rồi có người lại nhận là hậu duệ của
nhân vật này.
Đến
đây, tôi đã làm tròn trách nhiệm đối với lời dặn của cố GS Trần Huy
Liệu, kèm thêm một số đề xuất để xử lý câu chuyện Lê Văn Tám. Tôi hoàn
toàn không coi đấy là việc làm trái với phẩm chất trung thực hay lương
tâm của nhà sử học, cũng không ảnh hưởng đến uy tín của GS Trần Huy Liệu
và càng không làm đổ một biểu tượng hay tượng đài yêu nước. Tôi nhấn
mạnh, theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ
có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng
trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
PHL (bauxitevietnam.ìno)
http://duonggia.vnweblogs.com/post/15530/191732
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét