Đừng nghe những gì ông Dũng nói, ông ta chỉ hô hào suôn để lừa phỉnh và trấn an dư luận, thương lượng bí mật song phương có tính cách “câu giờ” thì chắc chắn rằng Hoàng Sa sau 50 năm Trung cộng chiếm cứ mà không có thưa kiện ra quốc tế theo như lời cảnh giác của luật sư Trần Lâm thì xem như “cứt trâu để lâu hóa bùn”.
++++++
Bức công hàm ngày 14-9-1958.
Những năm gần đây một cái công hàm lịch sử gây dư luận xôn xao đang
để lại hậu quả của nó làm nhói đau lòng dân tộc Việt vì đã được “nước
bạn Trung quốc” ân cần nhắc lại nhưng chính quyền CSVN thì lờ đi như
không biết. Lịch sử của tổ tiên ta đã chứng minh chủ quyền của dân tộc
mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ấy thế mà chính quyền CSVN
đã lên tiếng nói rằng nó là “một phần của Trung quốc theo lịch sử”. Xin
hỏi đó là lịch sử nào?
Phóng viên Lê Dân đài RFA tìm hiểu qua tra cứu một số văn kiện và báo chí quốc tế trình bày như sau:
Phóng viên Lê Dân đài RFA tìm hiểu qua tra cứu một số văn kiện và báo chí quốc tế trình bày như sau:
“Theo tư liệu của Bộ Ngoại giao Trung quốc thì văn kiện mang tên “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa” được tạp chí Beijing Review in lại trong số ấn hành ngày 18 tháng Hai năm 1980, thì Hà Nội đã thỏa hiệp được với Bắc kinh trong quá khứ về việc này. Chúng tôi xin trích thuật:
“Vào tháng Sáu năm 1956, hai năm sau khi chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã thành lập tại Hà Nội, thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm đã nói với ông Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung quốc tại Việt Nam, rằng theo dữ liệu của Việt Nam thì đảo Tây Sa (tức Paracels, Hoàng Sa) và đảo Nansha (tức Spratleys, Trường Sa) là một phần thuộc Trung quốc theo lịch sử”. (?)
“Đến
ngày 4 tháng 9 năm 1958, Bắc kinh ra tuyên bố chính thức về hải phận
của họ, bao gồm 12 hải lý từ bất kỳ mốc lãnh thổ nào của Trung quốc,
“trong đó tính gồm cả các đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa…” (RFA online ngày 12-12-2007)
Sau
đây xin trích nguyên văn lời công bố của chính quyền Bắc kinh về lãnh
hải 12 hải lý và chủ quyền biển đảo của họ vào ngày 4 tháng 9 năm 1958:
“Lãnh
hải nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp
dụng cho toàn lãnh thổ nước CHND Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục
cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung
quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành
Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung quốc”. (X-cafevn online ngày 5-9-2009)
Mười ngày sau, tức là ngày 14 tháng 9 năm 1958 thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Chu Ân Lai một bức công hàm có nội dung:
“Chúng
tôi trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam
DCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của
chính phủ nước CHND Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc.
“Chính
phủ nước Việt Nam DCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý
của Trung quốc, trong mọi quan hệ với nước CHND Trung Hoa trên mặt bể.
“Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”. (Tuần ViệtNam online ngày 20-7-2011)
Nguyên bộ trưởng Ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm đã giải thích bức công
hàm này trong một cuộc
họp báo tại Hà Nội ngày 2-12-1992 và được Thông
tấn Xã Việt Nam loan tin ngày 3-12-1992, xin trích như sau:
“Ông nói: “các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và
Trường Sa như vậy là do theo Hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông
Dương thì tất cả lãnh thỏ từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam là thuộc về chính
quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này.
“Thêm
vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc
chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt- Trung đang
thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung
quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.
“Trong tinh thần đấy thì do tính cấp bách, quan điểm lãnh của đạo ta (tức ủng hộ Trung quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.
“Đặc
biệt việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn ngừa đế
quốc Mỹ không sử dụng các quần đảo đó để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo ta tạm công nhận
như thế với Trung quốc không có can hệ gì đến chủ quyền lịch sử và
pháp lý của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng sa cả”. (RFA online ngày 12-12-2007)
Qua sự giải thích và biện minh của ông Nguyễn Mạnh Cầm có câu: “trong tình thế cấp bách, quan
điểm của lãnh đạo ta (tức ủng
hộ Trung quốc công bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa)” cho thấy rằng chính quyền VNDCCH, mà trong đó chủ tịch Hồ Chí
Minh là chính đã phải cúi đầu công nhận chủ quyền của Trung cộng trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước đó 2 năm chính thứ trưởng Ung Văn Khiêm cũng đã công nhận hai quần đảo nói trên “thuộc về Trung cộng theo lịch sử” rồi, làm sao chối cãi?
Trong chuyến đi Bắc Kinh của thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn ngày 25-6-2011 gặp ông Đới Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện Trung quốc đặc trách đối ngoại và ông ta đã cố tình nhắc lại:
“Tối 28-6, Tân Hoa Xã đưa lên mạng bản tin Anh ngữ, theo đó Bắc Kinh hyvọng
Hà Nội sẽ thực hiện những gì hai bên đạt được trong chuyến công cán
tại Trung quốc của thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, được hiểu là
Trung quốc kêu gọi Việt Nam thực hiện điều gọi là đồng thuận.
“Ngoài
ra Tân Hoa Xã còn nhắc lại tư liệu lịch sử, theo đó năm 1958 khi Trung
quốc tuyên bố chủ quyền các đảo ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông Việt
Nam) thủ tướng Việt Nam ông Phạm Văn Đồng đã gởi công hàm ngoại giao bày tỏ sự đồng thuận với thủ tướng Trung quốc lúc đó là ông Chu Ân Lai”. (RFA online ngày 1-7-2011)
Theo tài liệu mà Wikileaks
vừa tiết lộ bức công điện ngày 13-3-2008 của tòa đại sứ Mỹ tại Hà nội
thì chắc chắn rằng theo “đồng thuận” ngầm, Việt Nam đã “bán” hẵn quần
đảo Hoàng Sa cho Trung quốc. Có phải đây là sự “đồng thuận” theo như lời
của Zheng Zhehua,
phó Giám độc Cơ quan Hoạch định Chính sách thuộc Ban Quan hệ Á châu bộ
Ngoại giao Trung quốc đã nói rõ về số phận của quần đảo Hoàng Sa nên
đảng CSVN không thể công bố?
“Zheng lưu ý rằng Trung quốc đã chính thức tuyên bố ranh giới khu vực chủ quyền 12 hải lý xung quanh quần đảo Hoàng Sa, nơi họ tin rằng chủ quyền của họ là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, vẫn theo Zheng, Trung quốc không làm điều này với khu vực quần đảo Trường Sa, vì Bắc kinh thừa nhận rằng những tuyên bố như vậy tại đây là phức tạp hơn”. (Bí mật VN qua hồ sơ Wikileaks - trang 184)
Sau
chuyến đi của ông Hồ Xuân Sơn và công bố “đồng thuận” của Tân Hoa Xã,
chính quyền Việt Nam bắt đầu thẳng tay đàn áp các cuộc biểu tình chống
Trung cộng để bảo vệ HS-TS khiến cho những người Việt Nam nghi ngờ một
sự “đồng thuận” khuất tất gì đó nên họ đã kiến nghị chính quyền công bố
công khai cho toàn dân biết, nhưng cho đến nay nhà cầm quyền CSVN vẫn
lặng câm. Luật sư Trần Vũ Hải đã nêu lên thắc mắc chung, ông nói:
“Trách nhiệm của Bộ ngoại giao là phải giải thích rõ là khi trao đổi với Trung quốc có đúng như quan điểm của Tân Hoa Xã loan báo hay không. Trước mắt phải khẳng định điều đó hay là Tân Hoa Xã theo cái truyền thống làm như thế liên quan tới Biển Đông mà không phản ánh đúng quan điểm của Việt Nam đã trình bày trong buổi đó…
“Nếu
không giải thích sẽ bị hiểu nhầm bất lợi về nhiều thứ: Nhưng tôi nghĩ
rằng, sẽ có nhiều người đích thân yêu cầu bộ Ngoại giao phải giải thích
về vấn đề này, Tân Hoa Xã có nói đúng hay họ xuyên tạc để có quan điểm
rõ ràng….
“Theo VNExpress bản tin trên mạng ngày 30-6, ông Lê Văn Nghiêm,
Cục trưởng Thông Tin đối ngoại nhìn nhận là đã học được bài học qua
vấn đề Biển Đông. Đó là trong mọi trường hợp phải chủ động thông tin,
không thông tin, hoặc thông tin không kịp thời không đầy đủ thì coi như
nhường trận địa thông tin cho đối phương”. (RFA online ngày 1-7-2011)
Nhà ngoại giao kỳ cựu, ông Lưu Văn Lợi
đã lên tiếng giải thích về bức công hàm này qua bài viết đăng trên tạp
chí Xưa & Nay (Số 315, tháng 9-2008, trang 40) với tựa đề “Bức thư
của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi các nhà lãnh đạo Trung quốc ngày
14-9-1958” được ông Bùi Van Phú ghi lại như sau:
“Chính phủ Trung quốc tuyên truyền đây là một “bằng chứng” Việt Nam công nhận quần đảo Hoàng Sa là của Trung quốc.
“Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ
có một nội dung là ủng hộ Trung quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý
và chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy
định 12 hải lý. Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng
không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại
xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung quốc?” (Talawas online ngày 9-14-2009)
Bộ
Ngoại giao vẫn im lặng không nói gì đến bức công hàm mà chỉ để Mặt
trận Tổ quốc lên tiếng qua báo Đại Đoàn Kết và ở đó thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ nghiên cứu Biển Đông) cũng giải thích một cách lấp
liếm như ông Lưu Văn Lợi trong khi ông Nguyễn Mạnh Cầm đã thừa nhận: “quan điểm của lãnh đạo ta (tức ủng hộ Trung quốc công bố chủ quyền của họ trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là cần thiết..” còn ông thứ trưởng Ung Văn Khiêm thì nói rằng:“Theo
dữ liệu của Việt Nam thì đảo Tây Sa (tức Paracels Hoàng Sa) và đảo
Nansha (tức Spratleys, Trường Sa) là một phần thuộc Trung quốc theo lịch
sử”. Có
một điều đáng nói là “ lãnh đạo ta” đã vô liêm sĩ và thiếu tinh thần
trách nhiệm khi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc bấy giờ không
phải thưộc quyền của mình nên họ đã trơ trẻn nhận vơ là của “đồng chí vĩ
đại”. Cả hai ông cớm ngoại giao đã tuyên bố rõ như thế mà còn giải
thích quanh co chỉ nhận có hải phận 12 hải lý? Chính vì công nhận 12 hải
lý nầy mà Trung cộng đã ngang ngược hoành hành trên vùng biển quanh
Hoàng Sa và Trường Sa mấy năm nay, vậy mà ông thạc sĩ Hoàng Việt viết:
“Công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ
đặc thù VNDCCH-Trung quốc lúc đó “vừa là đồng chí vừa là anh em”…
“Trung quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm
khẳng định chủ quyền trên biển của Trung quốc trong tình thế đe dọa tại
eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung quốc vẫn không quên mục đích “sâu xa”
của họ trên Biển Đông nên đã “lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
“Công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất
đặc thù với Trung quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự
ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối XHCN bấy giờ là cử chỉ
ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn
trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung quốc trước các diễn biến quân sự phức
tạp trên eo biển Đài Loan…
“Trong công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề
cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo
nào như Trung quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản
có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng
công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định đã thừa
nhận chủ quyền của Trung quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch
sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý”….
“Trong công hàm 1958, thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó không cần thiết, bởi theo
Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam
vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì chính phủ
VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần
đảo này theo luật pháp quốc tế”…(Tuần ViệtNam online ngày 20-7-2011)
Luật gia Trần Đình Thu cũng lập luận cùng một giọng điệu với thạc sĩ Hoàng Việt trong Đại Dân Tộc, ông còn cho rằng cái công hàm “nói nôm na giống như một tiếng vỗ tay đồng thuận hay một lời la ó phản đối”,
thưa ông Thu, ở đây tôi nghĩ không phải vậy, mà nó còn để lại một hậu
quả nghiêm trọng không lường khi mà “nước bạn Trung quốc” đã cố tình
chiếm đảo của ta thì chúng ta không thể coi nhẹ cái công hàm ấy được.
Qua việc phân trần của luật gia Thu cho chúng ta thấy được cái cảnh bị
lệ thuộc thiên triều của Việt Nam DCCH lúc bấy giờ bi thảm như thế nào.
“Theo luật quốc tế, gía trị của công hàm chỉ là nêu quan điểm của chính phủ một nước về một vấn đề quốc tế, nói
nôm na như là tiếng vổ tay đồng thuận hay một lời la ó phản đối. Chỉ
khi nào Việt Nam ký hiệp định với Trung quốc nói rõ những vùng biển đảo
nào thuộc Trung quốc thì khi đó mới có gía trị.
“Vào
năm 1958, trong bối cảnh Việt Nam DCCH đang quan hệ với Trung quốc,
việc ra công hàm ủng hộ Tuyên bố 1958 của nước bạn Trung quốc là không
thể không làm. Khổ nổi tuyên bố của nước bạn quá ngạo ngược về cái “ranh
đất không giống ai” đó. Như vậy thì công hàm phải viết thế nào đây?…
“Tuy nhiên, công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khéo léo công nhận chỉ 1 vấn đề là bề rộng lãnh hải 12 hải lý mà thôi…
“Từ đó chúng tôi kết luận: Công hàm 1958 không thể là nguyên nhân dẫn
đến các rắc rối về sau liên quan đến chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và
nước bạn Trung quốc. Việc nước bạn Trung quốc có những tuyên bố thiếu
phù hợp gần đây là do sự chủ động của họ”. (Đàn Chim Việt online ngày
12-12-2011)
Từ lâu rồi Trung quốc hoành hành
trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên Biển Đông, ông Thu
có
thấy được hậu quả tai hại của cái công hàm đó như thế nào không? đối với
người vô trách nhiệm thì cái công hàm đó như “một tiếng vỗ tay”, nhưng
với “nước bạn Trung quốc” có chủ tâm chiếm đảo của ta thì nó lại khác,
nó là một bằng chứng có gía trị vô cùng. Để biện minh cho việc làm ngang
ngược của mình trên Biển Đông, Trung cộng đã nhắc lại cái công hàm năm
1958 theo như bức công điện ngày 13-3-2008 của tòa đại sứ Hoa kỳ tại Hà
Nội gửi về bộ Ngoại giao Hoa kỳ mà Wikileaks vừa tiết lộ được nhà báo
Ngô Nhân Dụng viết nên bài
“Một di sản của Phạm Văn Đồng” lược trích:
“Việc ngăn cấm các công ty quốc tế tìm dầu trong thềm lục địa Việt
Nam buộc chính quyền Bắc kinh phải giải thích với nước có những hang dầu
bị cấm. Và họ đã viện dẫn lá thư Phạm Văn Đồng làm bằng cứ. Một điện
văn của đại sứ Mỹ ở Hà nội (mới tiết lộ cuối tháng 8 năm 2011) kể lại
mấy cuộc tiếp xúc với quan chức Trung cộng để nghe họ biện minh việc cấm
đoán các hảng dầu Mỹ. Trong cuộc gặp gỡ ngày 7 tháng 3 năm 2008 với
nhân viên Ngoại giao Mỹ, ông Trịnh Chấn Hoa (Zheng Zhenhua Đ/N), phó chủ
nhiệm phòng Kế hoạch thuộc Vụ Á châu, bộ Ngoại giao Bắc kinh, đã nêu
lên lá thư do ông Phạm Văn Đồng ký gửi thủ tướng Chu Ân Lai để chứng
minh Việt Nam đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung quốc trên các
đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1958”. (Người Việt online ngày
13-9-2011)
Trung cộng đã tung hoành như cướp trên vùng biển đảo của ta với biết bao
vụ đâm chìm tàu và bắn giết ngư phủ và cái ngang ngược nhất là đã cắt
cáp tàu thăm dò dầu khí trong thềm lục địa của ta. Trung quốc đã điều
biết bao tàu lớn nhỏ uy hiếp, đe dọa nhân dân ta cũng như đưa tàu khai
thác dầu khí lớn nhất của chúng vào Biển Đông thì chuyện giải quyết sẽ
ra sao?
Mới vừa rồi, khi trả lời chất vấn trước Quốc hội, thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố:
“Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ và lịch sử pháp lý để khẳng định
điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ
quyền với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình”. (VNExpress online ngày 25-11-2011)
Với tham vọng bành trướng với quân đông, tàu lớn, súng to của “nước bạn”
chúng ta sẽ “dùng biện pháp hòa bình” để lấy lại Hoàng Sa như thủ tướng
Dũng vừa tuyên bố, trong khi chúng chiếm của ta bằng máu thì liệu có
tin được không?
Đừng nghe những gì ông Dũng nói,
ông ta chỉ hô hào suôn để lừa phỉnh và trấn an dư luận, thương lượng bí
mật song phương có tính cách “câu giờ” thì chắc chắn rằng Hoàng Sa sau
50 năm Trung cộng chiếm cứ mà không có thưa kiện ra quốc tế theo như lời
cảnh giác của luật sư Trần Lâm thì xem như “cứt trâu để lâu hóa bùn”.
Đứng trước hiểm họa vĩnh viễn mất Hoàng Sa và cả Trường Sa nhân dân Việt
Nam đã biểu tình phản đối và tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã long trọng tuyên bố:
“Được biết tình hình này, một số cựu chiến binh lão thành phẫn nộ: Họ
dựa vào công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 chứ gì, nếu cần
dân Việt nam sẽ xé toạc công hàm đó, gạch chéo lên công hàm đó: quyết
định về lãnh thổ mà không có chuẩn y của Quốc hội, không trưng cầu dân ý
thì chẳng có gía trị gì, dân xé lúc nào cũng được. Dân chúng tôi không
bị ràng buộc bởi công hàm đó!” (Đối Thoại online ngày 13-12-2007)
Thay mặt lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thượng tọa
Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Tăng thống ra tuyên cáo về cái công hàm
ngày 14-9-1958 xin trích như sau:
“Công hàm ngày 14-9-1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ đại diện cho thiểu
số đảng viên cộng sản mà không đại biểu cho toàn dân miền Bắc Việt Nam,
vì nội dung bán nước của công hàm không được trưng cầu dân ý, cũng
không được thông qua trước Quốc hội VNDCCH, dù nhân dân không cộng sản
chẳng có đại biểu tại quốc hội này y hệt như quốc hội hiện nay…
“Xem như thế công hàm ngày 14-9-1958 của ông Phạm Văn Đồng vô gía trị
trên mặt pháp lý quốc tế, pháp lý quốc gia và ý chí dân tộc. Công hàm
chỉ là dự tính chia chác phi pháp giữa hai đảng cộng sản Việt-Trung”. (Thời Luận ngày 17-9-2008)
Theo đề nghị của ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch MTTQVN tại Tp Sài
Gòn và cũng là nguyện vọng của nhân dânViệt Nam yêu cầu:
“Nhà nước nên tổ chức đối thoại một cách công khai về Biển Đông, trên
tinh thần xây dựng, chứ đồng thuận mà không có phản biện chỉ tạo nên
một sự đồng thuận gỉa tạo…Một dân tộc có quá trình đấu tranh dựng nước
và giữ nước rất là hiển hách như Việt Nam thì không nên quỵ luỵ trước
Trung quốc”. (Bauxite Việt Nam online ngày 19-9-2011)
Đại Nghĩa - Sưu tầm
Danlambaovn
Đại Nghĩa - Sưu tầm
Danlambaovn
25 comments
http://vtc.vn/2-316170/xa-hoi/du-kien-thu-tuong-duoc-tang-nhieu-quyen-han.htm
(VTC News) – Dự kiến bổ sung nhiệm vụ thực hiện lệnh thiết quân luật, lệnh giới nghiêm… cho Thủ tướng Chính phủ.
“Luật sư Nguyễn Hữu Thống : Tôi chắc là thật ra Hồ Chí Minh có viết thư cho Mao Trạch Đông rồi. Trung Quốc nắm hai cái thư đó thì nó mới chịu cho Đảng CSVN giải phóng Miền Nam năm 59. Chuyện Chu Ân Lai với Phạm Văn Đồng chỉ là cái bề ngoài thôi…”
(xem Sự thật về công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng Nhã Trân phỏng vấn Luật sư Nguyễn Hữu Thống )
tội buôn dân bán nước phải bị tru di
Mời quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu qua cuộc phỏng vấn của Nhã Trân với Luật sư Nguyễn Hữu Thống ở California, Chủ Tịch Uỷ ban Luật Gia Bảo Vệ Nhân Quyền, một tổ chức của người Việt ở hải ngoại tại Hoa Kỳ.
Nhã Trân : Xin chào Luật sư Nguyễn Hữu Thống. Thưa Ông, Công Hàm của cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng của Nước Việt nam Dân Chủ Công Hoà gửi cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai vào Năm 1958 có giá trị thế nào về mặt pháp lý?
Luật sư Nguyễn Hữu Thống : Cái thư của Phạm Văn Đồng không có giá trị và vô hiệu lực về phương diện công pháp quốc tế. Ông Phạm Văn Đồng chuyện nhượng lãnh hải cho Trung Quốc thì thứ nhất họ vi phạm pháp lý, mạo nhận tư cách sở hữu chủ bởi vì đất đó lúc đó thuộc Việt Nam Cộng Hoà chứ không phải của Miền Bắc. Cái đó là một điểm. Điểm đó quan trọng nhất. Ông Phạm Văn Đồng trả lời cái thư của ông Chu Ân Lai nhưng mà tôi không có quyền nhường lãnh hải cho ông trong đó có Tây Sa và Nam Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa đó, mà Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam chứ không phải của Trung Quốc. Trung Quốc có thể có 12 hải lý trong vùng biển lãnh thổ, cái đó là áp dụng cho Trung Quốc thôi chứ không áp dụng cho Hoàng Sa - Trường Sa.
Cái việc thứ nhì, đảng cộng sản và Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng vào Năm 1958 không có tư cách là sở hữu chủ để mà chuyển nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Vấn đề lãnh thổ và lãnh hải phải do quốc hội quyết định, do quốc dân quyết định chứ không phải do thủ tướng, không phải do hành pháp quyết định. Do quốc hội mà Quốc Hội của Việt Nam Cộng Hoà có lên tiếng 3 lần rồi.
Đảng cộng sản không thể nào thay mặt quốc dân được, thủ tướng chỉ là người thi hành luật pháp thôi chứ không có quyền quyết định về vấn đề chủ quyền lãnh hải - lãnh thổ.
Nhã Trân : Thưa Luật Sư, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam và nằm trong vùng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, điều này hẳn là Trung Quốc khi ấy nắm rõ. Như vậy thì tại sao chính quyền Bắc Kinh vẫn tuyên bố có quyết định về lãnh hải của họ bao trùm cả khu vực hai quần đảo này?
Luật sư Nguyễn Hữu Thống : Tôi chắc là thật ra Hồ Chí Minh có viết thư cho Mao Trạch Đông rồi. Trung Quốc nắm hai cái thư đó thì nó mới chịu cho Đảng CSVN giải phóng Miền Nam năm 59. Chuyện Chu Ân Lai với Phạm Văn Đồng chỉ là cái bề ngoài thôi. Cộng sản muốn "giải phóng" một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách đế quốc tư bản qua đấu tranh võ trang. Hồ Chí Minh muốn "giải phóng" Miền Nam thì phải nhờ Mao Trạch Đông vào năm 56, lúc đó tổng tuyển cử theo hiệp định Geneva không thành.
Thế thì đến năm 58-59 cộng sản thành lập cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thì lúc đó đã cấu kết với Trung Quốc rồi. Thời kỳ đó chỉ có Trung Quốc viện trợ thôi. Vì thế mà có sự cam kết hồi 59, trong kế hoạch của đảng cộng sản có cái đó. Năm 59 nó phát động chiến dịch giải phóng Miền Nam thì làm gì có tiền, chỉ có Trung Cộng giúp thôi. Chắc chắn vì thế đảng cộng sản mới nhường cho Trung Quốc lãnh hải, trong đó có cả Hoàng Sa-Trường Sa. Việt Nam yếu thế nên Trung Cộng không sợ.
Tại sao Trung Quốc không đòi những đảo như đảo Ba Bình của Đài Loan, những đảo của Phi Luật Tân mà đòi của Việt Nam, bởi những nước kia dân đánh động, hễ động một cái là dân biểu tình, đập phá toà đại sứ, báo động khắp thế giới, trong khi cộng sản Việt nam không cho dân biểu tình. Đảng Cộng Sản Việt Nam không cho người dân biểu lộ thái độ, quốc hội của cộng sản thì không dám nói gì cả.
(Nguồn: Sự thật về công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng Nhã Trân phỏng vấn Luật sư Nguyễn Hữu Thống )
Không phải vậy đâu bạn ơi. Công hàm bán nước Phạm Văn Đồng đề ngày 14/9/1958 và được ông Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng TQ, Chu Ân Lai, để trả lời cho Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Quốc Vụ Viện TQ về lãnh hải của Tàu, trong đó có nói Tây Sa (tức Hoàng Sa của VN) và Nam Sa (tức Trường Sa) là nhừng hải đảo của TQ.
Đỗ Trọng.
Hồ Chí Minh gốc Trung Hoa,
Ông thờ cố quốc cũng là đương nhiên.
Biển Đông Ông cống tổ tiên,
Phạm Văn Đồng, Ung Văn Khiêm dám gàn?
Lê Khả Phiêu hiến Nam Quan,
Thác Bản Dốc dâng lân bang cầu hòa.
Nông Đức Mạnh cũng quá cha,
Bao tài nguyên rước Trung Hoa tới đào.
Nguyễn Phú Trọng mới siêu sao,
Mang hẳn cờ đào đem tặng Trung Hoa.
Ích Tắc, Chiêu Thống thua xa,
Sao bằng đồng chí chúng ta bây giờ!!!
Sài Gòn.12/2011.
Một quyết định thiển cận ích kỷ gây hại ngàn đời cho con cháu của đảng cộng sản! Nhân dân sẽ định tội những tên đầu lãnh này.
Đảng ta có lợi được ngồi lì thêm vài năm
Đảng bạn được lợi thêm tí ti tài nguyên thiên nhiên
Nhân dân ta từ nay được vinh dự trở thành công dân 1 nước có dân số đông nhất thế giới, có nền kinh tế hùng mạnh sắp tiến đến nhất thế giới, lại có lực lượng quân sự khiến các nước phải ngưỡng phục.
Thế đấy, ngôi sao ta bé lại, gắn vào lá hồng kỳ đại đoàn kết, và ta lại được lớn lên, ngang tầm thế giới cơ mà sao các bác lại bức xúc thế ạ
Kúng hỉ phát tsài các bác nhá
Bán nước hại dân mặt Cộng bay
Trong đêm khuya thanh vắng, bổng chợt thức giấc bởi có tiếng vọng về từ cỏi âm xa xôi ngàn dặm
MỜI CÔ BÁC MUA NHÀ CỬA, XE CỘ vvv..
Hết rồi, đất nước khó tồn tại.
Thôi ...xin phổ biến trong nhân gian VN dùm ;
" Lấy xác Cộng lấp sông Bến Hải ,
Nhổ râu Hồ làm bàn chảy chà chân . "