Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Đối diện với sức mạnh đang lên của Trung Quốc, hầu hết các quốc gia châu Á đang nhiệt liệt đón chào một sự hiện diện hùng hậu hơn của Mỹ trong khu vực này. Và họ coi đây là một chiến lược cổ điển nhằm đề phòng khả năng sự trỗi dậy của Trung Quốc không diễn ra một cách hoà bình và tốt đẹp.



Cả bà Clinton lẫn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đều xác nhận rằng trở lại châu Á có nghĩa là khẳng định lại một cách quả quyết các lợi ích chiến lược Mỹ trong khu vực: cụ thể gồm có, quyền đi lại không bị hạn chế của Hạm đội Bảy trong Biển Đông và nói rộng ra là trong vùng Tây Thái Bình Dương; một đường lối giải quyết đa phương các tranh chấp lãnh hải trong khu vực chứ không phải các giải pháp song phương mà Trung Quốc mong muốn; và tái phối trí các lực lượng quân sự Mỹ nhằm thúc đẩy các lợi ích chiến lược của Mỹ một cách hữu hiệu hơn trước.




https://www.facebook.com/xuongduong123





Alan Dupont, The Australian, ngày 14-11-2011

Trần Ngọc Cư dịch



“Như vậy, tôi cho là không có gì đáng hoài nghi về sự kiện Mỹ trở lại châu Á, nếu trước đây người ta có đôi chút nghi ngờ khi chính quyền này mới nhậm chức. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng tôi trở lại để ở lại tại đó” – Hillary Clinton, Bộ trưởng Ngoại trưởng Mỹ, 12 tháng Giêng, 2010.


Lời tuyên bố của Hillary Clinton rằng Mỹ “trở lại châu Á” gợi lên thắc mắc là liệu trước đó ta có thể nói là Mỹ đã thật sự bỏ đi hay chưa.


Kể từ khi Nhật Bản bị đánh bại hoàn toàn trong Đại chiến thứ Hai của thế kỷ XX, Mỹ đã duy trì một sự hiện diện to lớn và liên tục tại châu Á, tham chiến trong hai cuộc xung đột lớn khác (Chiến tranh Triều Tihên và Chiến tranh Việt Nam) và hiện vẫn còn âm thầm theo đuổi một “cuộc chiến lâu dài” chống lại các nhóm khủng bố đang hoạt động tại các nước đông đảo người Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Đối với nhiều người châu Á, Mỹ lả lực lượng chính bảo vệ sự ổn định khu vực. Dù muốn dù không, Mỹ vẫn là một cường quốc không thể thiếu tại châu Á.


Cả bà Clinton lẫn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đều xác nhận rằng trở lại châu Á có nghĩa là khẳng định lại một cách quả quyết các lợi ích chiến lược Mỹ trong khu vực: cụ thể gồm có, quyền đi lại không bị hạn chế của Hạm đội Bảy trong Biển Đông và nói rộng ra là trong vùng Tây Thái Bình Dương; một đường lối giải quyết đa phương các tranh chấp lãnh hải trong khu vực chứ không phải các giải pháp song phương mà Trung Quốc mong muốn; và tái phối trí các lực lượng quân sự Mỹ nhằm thúc đẩy các lợi ích chiến lược của Mỹ một cách hữu hiệu hơn trước.


Thậm chí Gates còn quả quyết rằng Mỹ là một cường quốc thường trú (residential power) tại châu Á, với giai thoại nổi tiếng là vào tháng Sáu năm nay ông đã đánh cuộc 100 USD với một người đối thoại tại cuộc Đối thoại Shangri-La rằng trong 5 năm nữa, ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực “sẽ mạnh như, nếu không muốn nói mạnh hơn, ngày nay”.


Đối diện với sức mạnh đang lên của Trung Quốc, hầu hết các quốc gia châu Á đang nhiệt liệt đón chào một sự hiện diện hùng hậu hơn của Mỹ trong khu vực này. Và họ coi đây là một chiến lược cổ điển nhằm đề phòng khả năng sự trỗi dậy của Trung Quốc không diễn ra một cách hoà bình và tốt đẹp – một chiến lược cho đến nay đã tạo ra một vài đồng minh khá lạ lùng (strange bedfellows). Một hiện tượng có thể xảy ra là lá cờ Sao và Sọc (the Stars and Stripes) một lần nữa lại phất phới trên dải cờ của các chiến hạm Mỹ thả neo tại các căn cứ hải quân của Mỹ trước đây ở Đông Nam Á.


36 năm sau khi Mỹ hối hả rút khỏi Việt Nam một cách ô nhục, cả hai nước đã chính thức ký kết hiệp định quốc phòng đầu tiên tại Hà Nội vào ngày 1 tháng Tám vừa qua, sau khi các quan hệ quốc phòng và chính trị trở nên nồng ấm nhanh chóng. Sự nồng ấm này được biểu hiện trong các cuộc thao diễn hải quân hỗn hợp trên Vịnh Bắc Bộ và trong khả năng căn cứ hải quân của Mỹ trước đây tại Cam Ranh có thể được mở lại cho các tàu chiến của Hạm đội Bảy. Philippines cũng đang thúc đẩy Mỹ tăng cường các quan hệ quốc phòng, trong khi Indonesia và Singapore đã ngấm ngầm bày tỏ họ muốn chào đón một sự hiện diện to lớn hơn nữa của hải quân Mỹ trong khu vực này, một sự hiện diện rất có thể dẫn đến việc trú đóng các tàu tuần duyên chiến đấu mới tại Singapore.


Một môi trường chính trị tương đắc hơn nữa tại Đông Nam Á đã diễn ra ở một thời điểm thuận lợi cho Washington, khi chính quyền này muốn tăng cường các khả năng quân sự tại đây như một nỗ lực nằm trong một cuộc duyệt xét rộng lớn hơn liên quan thế đứng quân sự toàn cầu của Mỹ.


Những cuộc duyệt xét định kỳ này là các chỉ dấu cho thấy những ưu tiên chiến lược của Mỹ đang thay đổi. Chúng cho thấy một diễn tiến liên tục nhằm cắt giảm số căn cứ và các lực lượng đồn trú to lớn và thường trực từng làm nòng cốt cho quyền lực cứng của Mỹ tại châu Á trong thời Chiến tranh lạnh, để tiến tới các trạm thiết bị nhỏ bé hơn, tản mác hơn và ít tốn kém hơn tại các nước bạn nhằm tạo ra tính linh hoạt to lớn hơn, khỏi phải chịu đựng những tổn thất chính trị và tài chính nghiêm trọng – những tổn thất thường gắn liền với các căn cứ thường trực. Do đó, châm ngôn hiện nay của Mỹ là “places, not bases” (cần địa điểm, chứ không cần căn cứ) – những địa điểm mà binh lính, tàu bè và máy bay Mỹ có thể vào, ra khi cần thiết. Các trạm thiết bị tại châu Á là những phương án dự phòng hấp dẫn đối với Lầu Năm Góc. Bộ Quốc phòng Mỹ đang lo lắng các lực lượng Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và Guam có thể bị hàng không mẫu hạm và tên lửa thuộc thế hệ mới nhất của Trung Quốc tấn công. Sự tiếp cận dễ dàng các trạm thiết bị hải cảng và quốc phòng tại Đông Nam Á cũng sẽ tăng cường khả năng của Hải quân Mỹ trong việc kiểm soát các tuyến đường biển trọng yếu xuyên qua Biển Đông và Eo Biển Malacca để đi vào Ấn Độ Dương.


Cuộc duyệt xét thế đứng quân sự toàn cầu sắp tới sẽ đề xuất một vai trò quan trọng hơn cho Australia. Trong các đồng minh của Mỹ, Australia là quốc gia độc nhất đã gửi quân đến mọi cuộc xung đột tại châu Á mà Mỹ chủ động tham chiến kể từ năm 1941. Mặc dù những giá trị và lợi ích chiến lược chung từ lâu đã ràng buộc Australia và Mỹ trong một sự gắn bó chiến lược thiết thân khác thường, nhưng khoảng cách địa lý của Australia đối với các điểm nóng tại châu Á đã hạn chế giá trị quốc phòng của lục địa này đối với các kế hoạch gia quân sự tại Lầu Năm Góc.


Nhưng từ quan điểm của Washington, địa thế của Australia hiện nay có vẻ là một lợi thế chứ không phải là một trở ngại trong một thời đại mới, khi Mỹ cần phải cắt giảm các ngân sách quốc phòng và đang lo lắng về khả năng bành trướng quyền lực của Trung Quốc ngày một gia tăng.


Đại lục đảo này nằm ngoài tầm hầu hết các loại tên lửa của Trung Quốc và sẽ là một khu vực tương đối an toàn cho các phương tiện quân sự tản mác của Mỹ cũng như cung cấp các phương tiện hậu cần hữu ích, các thiết bị huấn luyện và các hải cảng, không kể đến các sân bay. Thật không đáng ngạc nhiên khi Mỹ muốn thấy Australia thủ đắc những phương tiện quốc phòng quy ước đầy tham vọng, như được báo trước trong sách trắng Quốc phòng năm 2009, nhất là các khả năng quân sự hùng hậu hơn hiện nay, tiêu biểu là chương trình thay thế các tàu ngầm loại Collins đã được lên kế hoạch, chương trình khu trục hạm phòng không (air warfare destroyers) và các loại máy bay oanh kích hỗn hợp hiện đại nhất. Dù vẫn còn là một lực lượng khiêm nhượng theo tiêu chuẩn của các đại cường châu Á, nhưng khi được tăng cường tối đa, Lực Lượng Quốc phòng Úc sẽ là một lực gia tăng tiềm năng quý báu cho quân đội Mỹ trong bất cứ một cuộc xung đột nào với Trung Quốc ở khu vực Tây Thái Bình Dương.


Vì thế, việc Mỹ trở lại châu Á có vẻ là một kết quả đáng mừng cho cả Mỹ lẫn Australia, gia tăng tầm quan trọng của một liên minh kéo dài gần 70 năm nay, làm nền tảng cho an ninh của Australia.



Điều này dường như chắc chắn là quyết định khôn ngoan của Chính phủ Gillard khi chính phủ này dứt khoát hoan nghênh việc Mỹ tái xác định quan tâm chiến lược tại Đông Nam Á và bày tỏ mọi dấu hiệu là sẽ đáp ứng các yêu cầu của Mỹ trong việc tiếp cận rộng rãi hơn các phương tiện quốc phòng Úc để đổi lấy tài trợ nhằm cải thiện các cơ sở hạ tầng và thậm chí nhắm đến việc hợp tác quốc phòng thân thiết hơn.


Alan Dupont đang giữ chức Khoa trưởng sáng lập của Phân khoa An ninh quốc tế và là Giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu An ninh Quốc tế tại Đại học Sydney. Đây là một đoạn trích được biên tập lại từ một bài tiểu luận của ông được đăng trên số mới nhất của tờ American Review do Trung tâm Hoa Kỳ học xuất bản.


Bài : Một lần nữa xin đón chào nước Mỹ, coi như quý quốc chưa bao giờ rời bỏ nơi đây

Nguồn: http://www.theaustralian.com.au
A. D.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.

http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/alan-dupont-australian-ngay-14-11-2011.html



+++++++++++++++++++++




“Cái gì thì cũng vừa phải thôi,” ông Obama nói thẳng thừng trong buổi họp báo chấm dứt cuộc họp thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Á Châu-Thái Bình Dương (APEC) nơi ông đạt được một thành quả quan trọng trong nỗ lực hình thành một vùng tự do mậu dịch xuyên Thái Bình Dương và khuyến khích kỹ thuật xanh.

TT Obama: ‘Trung Quốc phải hành xử như ‘người lớn’



HONOLULU (Reuters) - Tổng Thống Barack Obama hôm Chủ Nhật cho thấy Mỹ không thể tiếp tục chấp nhận các chính sách về thương mại và tài chánh của Trung Quốc, tìm cách tạo thêm áp lực lên đối thủ kinh tế lớn nhất của Mỹ.
*
Chủ Tịch Hồ Cẩm Ðào (trái) với Tổng Thống Barack Obama tại thượng đỉnh APEC hôm Thứ Bảy. (Hình: AP Photo/Charles Dharapak)



“Cái gì thì cũng vừa phải thôi,” ông Obama nói thẳng thừng trong buổi họp báo chấm dứt cuộc họp thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Á Châu-Thái Bình Dương (APEC) nơi ông đạt được một thành quả quan trọng trong nỗ lực hình thành một vùng tự do mậu dịch xuyên Thái Bình Dương và khuyến khích kỹ thuật xanh.


Với những lời lẽ cứng rắn nhất đối với Trung Quốc từ trước đến nay, ông Obama, một ngày sau khi gặp Chủ Tịch Nhà Nước Trung Quốc Hồ Cẩm Ðào (Hu Jintao), đòi hỏi rằng Trung Quốc phải ngưng “giỡn chơi” với luật lệ thương mại quốc tế và tạo điều kiện làm ăn bình đẳng cho các công ty Mỹ cũng như các quốc gia khác.


“Chúng tôi sẽ tiếp tục có thái độ cương quyết để đòi hỏi Trung Quốc hành xử theo đúng luật như mọi người khác,” ông Obama nói với các nhà báo sau khi chủ tọa cuộc họp thượng đỉnh của 21 quốc gia khối APEC tại quê nhà Honolulu. “Chúng tôi không muốn họ lợi dụng nước Mỹ.”


Trung Quốc đáp trả, cho hay từ chối không tuân theo luật lệ kinh tế thế giới mà họ không góp phần soạn ra.


“Ðầu tiên là chúng ta cần phải xác định đang nói đến luật lệ nào,” theo lời Pang Sen, một phó tổng giám đốc ở Bộ Ngoại Giao Trung Quốc.



“Nếu các luật lệ này có được qua các thỏa thuận chung và Trung Quốc là một phần của tiến trình này, thì Trung Quốc sẽ tuân theo. Nếu luật này do một quốc gia hay ngay cả một số quốc gia đưa ra, Trung Quốc không có bổn phận tuân hành.”


Ngay cả trong khi ông Obama đưa ra sự đe dọa có hành động trừng phạt Trung Quốc, người ta không biết chắc là ông có thật sự có ý định này hay đây chỉ là lời nói suông nhắm vào cử tri Mỹ đang lo ngại về tình hình kinh tế và sẽ bỏ phiếu quyết định về nhiệm kỳ nhì của ông trong cuộc bầu cử 2012.


Ông Obama đòi hỏi rằng Trung Quốc phải để cho giá trị đồng tiền của họ tăng nhanh hơn, nói rằng hiện đang bị kềm lại ở mức thấp một cách giả tạo và gây thiệt hại cho các công ty Mỹ cũng như làm mất việc làm. Tổng Thống Obama nói rằng Trung Quốc, vốn thường tự cho mình là quốc gia đang phát triển, nay đã “trưởng thành” và nên hành xử tương xứng trong lãnh vực kinh tế toàn cầu.


Những lời lẽ cứng rắn trao đổi giữa Mỹ và Trung Quốc khác hẳn việc có một lập trường chung mà các nhà lãnh đạo Á Châu-Thái Bình Dương muốn đưa ra cùng với lời hứa hẹn sẽ gia tăng khả năng kinh tế, hạ thấp rào cản thương mại trong nỗ lực ngăn chặn ảnh hưởng tai hại của cuộc khủng hoảng nợ nần ở Âu Châu.


Các thành viên khối APEC, vốn chiếm hơn nửa tổng trị giá kinh tế toàn thế giới, nói rằng họ đồng ý về nhiều phương cách để đối phó với nguy cơ đang nhắm vào nền kinh tế toàn cầu.


Khối APEC cũng đồng ý sẽ giảm thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ bảo vệ môi sinh xuống còn 5% để khuyến khích trao đổi kỹ thuật xanh, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc.


Việc ông Obama công khai chỉ trích Trung Quốc diễn ra trong lúc ông gặp áp lực từ các ứng cử viên tổng thống đảng Cộng Hòa cũng như từ phía đảng Dân Chủ đòi ông phải có lập trường cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh. Tuy nhiên, áp lực của Mỹ cũng chỉ có giới hạn, một phần cũng vì Bắc Kinh hiện là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. (V.Giang)

Nguồn: Người Việt
http://hientinhvn.blogspot.com/2011/11/tt-obama-trung-quoc-phai-hanh-xu-nhu_16.html



++++++++++++++++++++++



Mục đích cuối cùng của Mỹ là gạt Trung Quốc ra khỏi TPP

http://xuongduong.blogspot.com/2011/11/muc-ich-cuoi-cung-cua-my-la-gat-trung.html

Trích : Từ khi Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái Bình Dương (APEC) chưa khai mạc hôm 12/11 vừa qua tại Hawaï, người ta đã thấy quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ bỗng như nháng lửa. Bên lề phiên họp của cấp bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế, ngày 11/11, Ngoại trưởng Hillary Clinton kêu gọi Bắc Kinh tiến hành cải cách chính trị và nêu ra mối quan ngại của Mỹ về tình trạng chà đạp nhân quyền tại Trung Quốc, than phiền việc tăng ni Tây Tạng phải tự thiêu để phản đối và việc trí thức Trung Quốc, như luật sư mù Trần Quang Thành vẫn bị quản thúc tại gia.

Đáng chú ý hơn cả là màn đấu khẩu giữa trợ lý bộ trưởng Thương mại Bắc Kinh với đặc sứ về Thương mại của Hoa Kỳ về sáng kiến thành lập một khu vực tự do thương mại qua hiệp định "Đối tác Xuyên Thái Bình Dương", được gọi tắt là TPP. Khi phía Trung Quốc phàn nàn là không được mời vào việc thảo luận thì đặc sứ Mỹ phản pháo, rằng sáng kiến Xuyên Thái Bình Dương không là một câu lạc bộ khép kín, và ai cũng có thể xin gia nhập, nhưng chẳng nên đợi là sẽ được mời!


++++++++++++++++++++++



Đấu khẩu Mỹ -Trung về kinh tế tại Thượng đỉnh APEC

http://xuongduong.blogspot.com/2011/11/au-khau-my-trung-ve-kinh-te-tai-thuong.html

Trích : Tại Hội nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương đã diễn ra cuộc đấu khẩu về kinh tế giữa Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Mỹ Barack Obama. Giới quan sát cho rằng nguyên nhân chính là lãnh đạo của hai quốc gia khổng lồ trong khu vực có những bất đồng trong phân tích về tình hình kinh tế.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét